Chúa
Nhật Thứ 6 Thường Niên
(16-2-2003)
ÐỌC LỜI CHÚA
Lv 13,1-2.44-46: (1) Ðức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron: (2) Khi trên da thịt người nào phát ra nhọt, lác hoặc
đốm, và cái đó trở thành vết thương phong hủi, thì người ta sẽ đưa người ấy đến
với tư tế A-ha-ron hoặc với một trong các tư tế, con của A-ha-ron.
1Cr 10,31-11,1: (31) Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy
làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa. (1) Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Ðức
Ki-tô.
TIN
MỪNG: Mc 1,40-45
Ðức Giê-su chữa người bị phong
hủi (// Mt 8,1-4;
Lc 5,12-16)
(40) Có người bị
phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: Nếu Ngài muốn, Ngài có
thể làm cho tôi được sạch. (41) Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo:
Tôi muốn anh được sạch! (42) Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch. (43) Nhưng Người nghiêm giọng yêu cầu anh đi ngay, (44) và bảo anh: Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng
hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông
Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết. (45) Nhưng vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp
nơi, đến nỗi Người không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những
nơi hoang vắng ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Người.
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
1. So với những người Do Thái thường tình, cách đối xử của Ðức Giê-su
đối với những người cùi hủi có gì khác lạ? Ta có thể rút ra bài học gì về cách
xử sự với những người xấu số, bị người đời khinh ghét, ghê tởm?
2. Ðức Giê-su có phân biệt đối xử dựa trên giàu nghèo, sang hèn
không? Sự phân biệt đối xử như thế chứng tỏ một tình trạng tâm linh thế nào?
3. Tại sao Ðức Giê-su lại yêu cầu người cùi được Ngài chữa lành đừng
nói gì về việc Ngài đã làm cho anh ta?
4. Làm được một việc lành mà lại muốn khoe cho người khác biết thì ta được lợi gì về mặt tâm linh? Thiên Chúa đánh giá việc làm của con người dựa trên cái gì?
Suy tư gợi ý:
1. Thái độ của Ðức Giê-su đối với những người bệnh
cùi:
yêu thương và tôn trọng người xấu số
Bệnh cùi là một bệnh rất dễ lây truyền, mà ở vào thời Ðức Giê-su, lại là một bệnh nan y không có thuốc chữa. Nếu không có biện pháp cách ly những người bệnh cùi khỏi những người không bệnh, thì thật là nguy hiểm cho xã hội. Vì thế, luật Mô-sê (x. Lv 13,1-14,57)
chủ trương buộc những người lãnh đạo trong dân phải cô lập họ ở một nơi nhất định, thường là hẻo lánh, đồng thời tuyên bố những người nhiễm bệnh này là người ô uế, để mọi người tránh xa họ. Ai tiếp xúc với họ thì cũng trở thành ô uế. Nhưng người cùi nhiều khi lại không chịu ở nơi qui định cho họ, mà lại hay đi lang thang để xin ăn, hoặc tìm cách gặp thân nhân của mình. Vì thế, để buộc họ phải tránh xa mình, một số dân chúng đã ném đá họ khi gặp họ trên đường đi. Do đó, người bị bệnh cùi phải sống một cuộc sống hết sức cô đơn, khốn khổ, thiếu thốn, và đầy mặc cảm vì bị mọi người ghê tởm, xa lánh.
Nhưng theo Ðức Giê-su, dù thân hình họ xấu xa gớm ghiếc, họ vẫn là con cái Thiên Chúa, là con cháu của Áp-ra-ham, là đồng bào ruột thịt, nên họ vẫn là anh chị em với mình. Vì thế, mình cần phải yêu thương họ, phải đối xử với họ bằng tình thương. Vả lại, không vì hình thể gớm ghiếc bên ngoài mà giá trị con người của họ bị suy giảm trước mặt Thiên Chúa. Ðối với Ðức Giê-su, người biết nhìn vào chiều sâu của tâm hồn con người, thì họ không đáng gớm ghiếc và xa lánh cho bằng những người cùi hủi về mặt tâm linh. Cùi hủi tâm linh là tình trạng của những con người sống không biết đến tình nghĩa, sống ích kỷ, chỉ nghĩ tới hạnh phúc hay đau khổ của một mình mình hay của gia đình mình, không hề nghĩ đến hạnh phúc hay đau khổ của người khác, hay của những gia đình khác. Họ sẵn sàng có những hành động bỉ ổi để đè nén hay áp chế người khác, và cách hành động của họ thường là ném đá dấu tay, khẩu Phật tâm xà. Càng là người trí thức, càng có địa vị cao trong tôn giáo và xã hội, sự cùi hủi này càng được ngụy trang một cách tinh vi, khéo léo bằng những lời nói, hành động vị tha, bằng vẻ đạo đức bên ngoài (x. Mt 23). Ðức Giê-su càng tỏ ra an ủi vỗ những người cùi hủi thể chất bao nhiêu, Ngài càng không tiếc lời khiển trách những người cùi hủi tâm linh bấy nhiêu, thậm chí đến cạn tàu ráo máng (x. Mt 23).
Khi người cùi hủi đến cầu cứu Ðức Giê-su, Ngài không hề tỏ ra ghê tởm hay xúc phạm đến anh. Trái lại, Ngài chạnh lòng thương và giơ tay đụng vào người anh và nói: Tôi muốn anh được sạch! Ta đừng vội nghĩ rằng Ngài là Thiên Chúa nên Ngài không sợ lây nhiễm, hay có lây nhiễm thì Ngài sẽ dùng phép lạ để tự chữa. Tôi nghĩ rằng Ngài là người thật sự, đúng nghĩa một con người, nghĩa là có thể bị lây nhiễm như bao người khác. Và nếu bị lây nhiễm, không hẳn Ngài sẽ dùng quyền phép Thiên Chúa để tự chữa cho mình, cũng như Ngài đã không lạm dụng quyền năng Thiên Chúa để biến đá thành bánh mà ăn khi đói (x. Mt 4,2-4), hay để trốn thoát khi bị bắt (Mt 26,47-56), v.v. Tốt hơn, nên nghĩ rằng Ngài đối xử với anh ta bằng một tình yêu chân thành nhất, bằng sự tôn trọng đúng nghĩa nhất của một con người đối với một con người, bất chấp phải trả giá đắt. Và đó là điều ta nên noi gương Ngài khi đối xử với mọi người, nhất là với những người xấu số, bị xã hội coi thường, khinh bỉ. Ðạo đức của ta có hay không, ít hay nhiều hệ tại điều này. Sự phân biệt đối xử căn cứ trên giàu nghèo, sang hèn chứng tỏ một tâm hồn nghèo nàn về đạo đức và tâm linh.
2. Thái độ của Ðức Giê-su: không muốn ai biết về
mình
Bài Tin Mừng cho thấy, sau khi
chữa lành căn bệnh nan y như thế, Ngài nói với người được chữa lành: Ðừng nói gì với ai cả. Ðó là một thái độ
thường hằng của Ngài sau khi làm được một điều gì đáng khen ngợi, thậm chí đến
kinh ngạc: Ngài không muốn được người khác biết đến (x. Mt 8,4; 16,20; 17,9; Mc
1,34; 1,44; Lc 4,41), trì phi vì ích lợi cho họ (chẳng hạn để họ được cứu rỗi).
Ngài đã áp dụng đúng điều Ngài khuyên mọi người: Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương
cho thiên hạ thấy. Khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm
(Mt 6,1.3).
Thử đặt mình vào địa vị của
Ngài khi làm xong một việc mà không ai làm được, ta sẽ cảm thấy ta muốn được
nổi tiếng, được mọi người ca tụng hay khen ngợi, hầu đi tới đâu ta cũng được
khâm phục, kính trọng và được đối xử một cách đặc biệt. Ta cũng mong có những
đặc quyền đặc lợi vì những việc phi thường đã làm được. Khi viết được một bài
báo hay, giảng được một bài mà ta đoán được nhiều người tâm đắc, làm được một
việc tốt, ta mong chờ những lời khen ngợi. Nếu không được khen, ta cảm thấy như
bị hụt hẫng, lòng không thỏa mãn. Ta muốn cái
tôi của ta được phình to lên, to hơn những người khác.
Xét trên bình diện tự nhiên, đó
là một khuynh hướng rất thường tình, rất phổ quát, khá lành mạnh, nó tạo nên
động lực để ta cố gắng, nỗ lực hết mình. Tuy nhiên, nếu để khuynh hướng tự
nhiên này ảnh hưởng quá đáng trên tất cả mọi việc làm, đến nỗi nó trở thành
động lực duy nhất thúc đẩy ta hành động tốt, thì ta trở nên một con người rất
tầm thường, dù ta có làm được những việc phi thường. Lúc đó, ta làm mọi sự chỉ
là để được khen, được nổi tiếng, một mục đích hoàn toàn vị kỷ, chứ không còn vì
yêu thương, vì ích lợi cho người khác nữa.
Còn xét trên bình diện siêu
nhiên, khuynh hướng này có thể trở thành một mầm nguy hại cho sự phát triển tâm
linh, đạo đức. Theo định luật của tâm linh, muốn cho tâm linh lớn lên, phát
triển, thì cái tôi phải nhỏ đi,
nghĩa là phải sống tinh thần tự hủy, tự xóa mình, quên mình. Ðời sống tâm linh
càng cao, thì động lực thúc đẩy ta hành động càng phải vị tha, càng phải vô kỷ, vô công, vô danh (=không làm vì
mình, làm xong không cậy công, không mong được người khác biết mình đã làm).
3. Cách Thiên Chúa đánh giá việc làm của con người
Sự thánh thiện của một người được đánh giá theo mức độ vị tha, quên mình khi hành động. Ðộng lực thúc đẩy hành động của một người thánh thiện chính là tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Càng thánh thiện thì động lực thúc đẩy càng phải thuần túy là tình yêu hơn, và càng ít tính chất vị kỷ đi. Chính tình yêu làm cho hành động - dù nhỏ hay lớn - trở nên có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Thánh Phao-lô viết: Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có tình yêu, thì tôi cũng chẳng là gì cả. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không vì yêu thương, thì cũng chẳng ích gì cho tôi (1Cr 13,2-3). Như thế, những việc có vẻ đầy tình thương như đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, nếu ta làm chỉ vì mong được tiếng là đạo đức, là thương người, hay để được một lợi ích nào đó cho bản thân ta, chứ hoàn toàn không vì yêu thương, thì chẳng có giá trị gì trước mặt Thiên Chúa. Nó chẳng phải là một việc đạo đức, mặc dù có vẻ rất đạo đức.
Câu nói trên của thánh Phao-lô
cho thấy: một việc làm dù rất nhỏ như quét nhà, giặt giũ, nấu bếp của một người
vợ hay người con trong nhà, nếu được làm với tâm tình yêu mến Thiên Chúa, nhằm
làm cho những người thân yêu của mình tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn, thì có thể có
giá trị rất lớn trước mặt Thiên Chúa. Những việc làm nhỏ bé được làm với tình
yêu ấy rất có thể giá trị trước Thiên Chúa hơn cả những việc làm hết sức lớn
lao của những bậc vị vọng trong xã hội cũng như Giáo Hội, nếu những người này
làm chỉ vì muốn được danh tiếng, được thăng quan tiến chức, chứ không phải vì
yêu thương.
Cứ xem cách đánh giá của Ðức
Giê-su khi quan sát những người bỏ tiền vào thùng dâng cúng cho đền thờ thì
thấy rõ cách định giá trị của Thiên Chúa đối với các việc làm của con người: Bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết
(x. Mt 12,41-44). Cách Ngài đánh giá khác hẳn với cách của con người. Ngài dựa
trên tấm lòng, động lực thúc đẩy hành động, chứ không dựa trên hiện vật hay kết
quả của hành động. Cùng một việc làm, nhưng động lực tình yêu càng lớn, thì giá
trị công việc càng cao. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể đánh giá chính xác giá trị
của một hành động, vì chỉ Ngài mới biết rõ động lực thúc đẩy của hành động ấy
là gì.
Cầu nguyện
Lạy Cha,
Ðức Giê-su luôn luôn tự đồng hóa Ngài với tha nhân của con, nhất là với những
người bé mọn, đau khổ nhất (x. Mt 25,40.45; Lc 9,48). Xin cho con biết yêu
thương và cư xử với những người bị thế gian coi thường ấy như với chính Cha và
Ðức Giê-su vậy.
Joan Nguyễn
Chính Kết