Chúa Nhật lễ Thăng
Thiên
(1-6-2003)
ĐỌC LỜI CHÚA
· Cv 1,1-11: (11) Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên
trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời".
· Ep 1,17-23: Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Ki-tô và đặt
Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô, là sự
viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn.
· TIN MỪNG: Mc 16,15-20
Những lời
cuối cùng của Đức Giêsu trước khi Người lên trời
Khi ấy, (15) Người nói với các môn đệ: «Anh
em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. (16) Ai tin và
chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án. (17) Đây là
những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được
quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. (18) Họ sẽ cầm
được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay
trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ».
(19) Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời
và ngự bên hữu Thiên Chúa. (20) Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng
hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông
rao giảng.
CHIA SẺ
Câu hỏi
gợi ý:
1. Trước khi về trời, Đức Giêsu đã trăn trối lại
những gì cho chúng ta, là những môn đệ của Ngài? Chúng ta có quan tâm thực hiện
những điều ấy không? thực hiện thế nào?
2. Những dấu lạ – mà Đức Giêsu hứa sẽ đi theo
những kẻ có lòng tin – có ứng nghiệm với chúng ta không? Nếu không thì tại vì
Ngài hứa «cuội»
hay vì chúng ta chưa có đức tin đích thực? Đức tin đích thực là gì? Ta đã có
chưa?
3. Là người đang rao giảng Tin Mừng, ta đã có
đức tin thật sự chưa, hay mới chỉ là thứ đức tin được tuyên xưng chứ chưa được
sống? Có những «dấu lạ» đi kèm theo lời ta rao giảng để những ai nghe ta dễ
tin tưởng không?
Suy tư
gợi ý:
1. Lời trăn
trối cuối cùng
Trước khi từ giã các môn đệ để về
trời và để hiện hữu một cách khác bên cạnh các ông, Đức Giêsu đã trăn trối
nhiều điều. Những lời trăn trối quan trọng nhất là những lời Ngài nói ra trong
bữa tiệc ly trước khi ra đi chịu tử nạn và ngay trước khi về trời.
– Những trăn trối trong bữa tiệc
ly nói lên tinh
thần mà môn đệ của Ngài phải có: chủ yếu là yêu thương nhau (Ga 13),
tin và hợp tác với Thánh Thần (Ga 14; 16), liên kết chặt chẽ với Ngài (Ga 15),
hiệp nhất với nhau (Ga 17), mong đợi Ngài trở lại (Ga 16).
– Còn lời trăn trối ngay trước
khi Ngài về trời nói lên việc mà các môn đệ Ngài phải làm là «đi khắp tứ
phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo» để tiếp tục
sự nghiệp mà Ngài đã khởi sự. Đó cũng chính là công việc phúc âm hóa và tái
phúc âm hóa, để mọi người không chỉ biết Tin Mừng mà còn thật sự sống tinh thần
Tin Mừng nữa.
Về lời trăn trối sau, rất nhiều
Kitô hữu chỉ hiểu một cách nông cạn, là chỉ nghĩ tới việc rao giảng cho người
ta biết Thiên Chúa, biết Tin Mừng cứu độ của Đức Giêsu, và dừng lại tại đấy!
Nhưng thử hỏi nếu chỉ biết thôi thì ích lợi gì? Chẳng hạn biết rõ sự cần thiết
và ích lợi của thức ăn, hay biết rõ mình cần phải ăn gì để mạnh khỏe mà lại
không chịu ăn, thì sự biết rõ ấy có ích lợi gì? Nếu biết mà không sống điều
mình biết, không đem nó ra áp dụng thì chẳng những vô ích mà còn phải chịu
trách nhiệm về cái biết ấy nữa. Vì kẻ nhận 1 nén bạc thì chỉ phải làm lợi thành
1 nén khác thôi, nhưng kẻ nhận 5 nén thì có trách nhiệm làm lợi thành những 5
nén khác kia! (x. Mt 25,14-30; Lc 19,12-27).
Vì vậy, biết Tin Mừng mà không
chịu sống Tin Mừng là tự làm cho mình bị kết án nặng hơn. Cũng vậy, rao giảng
cho người ta biết Tin Mừng mà không giúp người ta sống Tin Mừng thì chỉ làm cho
người ta bị kết án nặng hơn chứ chẳng đem lại lợi ích gì cho họ. «Đức tin chết»
hay «đức
tin không có việc làm» (Gc 2,17.26) đâu thể đem lại ơn cứu độ? Cũng
như có đồ mà không đem ra dùng thì đồ ấy có ích lợi gì? hoặc cho người ta đồ mà
không chỉ cho người ta cách sử dụng thì coi chừng kẻo làm hại người ta? Việc
rao giảng Tin Mừng cần phải đi xa hơn một chút là giúp người ta sống Tin Mừng,
như thế sẽ làm lợi cho họ vô cùng. Như vậy, điều quan trọng là chính chúng ta
phải sống tinh thần Tin Mừng và làm cho mọi người cũng sống tinh thần Tin Mừng.
Biết và sống Tin Mừng, hoặc làm cho người ta biết và sống Tin Mừng, hai thứ ấy
phải đi đôi với nhau mới không có hại mà sinh ích lợi vô cùng cho mình và cho
người. Nên đã biết Tin Mừng hoặc giúp ai về mặt Tin Mừng thì hãy biết hoặc giúp
«tới nơi
tới chốn», với tinh thần trách nhiệm. Đừng «đánh trống bỏ dùi», «đem con bỏ
chợ», tức giúp nửa vời, rất tai hại!
2. Những dấu
lạ đi theo những ai có lòng tin
Theo lời của Đức Giêsu thì những
kẻ có lòng tin đích thực – tức tin và sống điều mình tin – sẽ có được những dấu
lạ theo mình: «Họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn,
và dù có uống nhằm thuốc độc cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người
bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ». Đó là những điều mà
tôi nghĩ rằng thời nào cũng đều ứng nghiệm, không chỉ là thời các tông đồ. Và
những điều này trước tiên được ứng nghiệm ngay nơi bản thân những người tin rồi
sau đó mới ứng nghiệm ra bên ngoài, tức với người khác hay với ngoại cảnh. Tuy
nhiên, lời Ngài nói cần phải hiểu theo nghĩa tâm linh, chứ không
nên hiểu theo nghĩa đen: tôi không tin rằng bất kỳ người mạnh tin nào cũng đều
có thể uống thuốc độc mà không chết, hay bị rắn cắn mà không sao! Vì thế, những
dấu lạ nói trên cần được hiểu như sau:
– «trừ được quỉ»: quỉ tượng
trưng cho thế lực của sự ác. Người thật sự tin vào Thiên Chúa – là nguồn sức
mạnh của mình – có thể thắng được những thế lực của sự ác hay của tội lỗi ngay
trong bản thân mình. Cụ thể là thắng được những cám dỗ, những tư tưởng xấu,
những khuynh hướng xấu, v.v… Nếu đức tin của họ mạnh hơn nữa, họ có thể giúp
những người yếu tin cũng thắng được thế lực ác giống như họ.
– «nói được những tiếng mới lạ»:
người có đức tin đích thực và sống nhuần nhuyễn đức tin ấy sẽ cảm nghiệm được
sự hiện diện của Thiên Chúa và Đức Giêsu, tức chứng ngộ được chân lý nơi bản
thân mình. Nhờ đó họ có thể tự diễn đạt đức tin của mình theo đủ mọi phương
thức khác nhau, chứ không dùng những kiểu nói sáo mòn, trống rỗng, thiếu chất
sống. Họ luôn luôn dùng những cách diễn tả mới lạ, phù hợp với thời đại, với
trình độ của người nghe, giúp người nghe cũng cảm nghiệm được thực tế đức tin
như họ. Họ như một y sĩ đã nắm thật vững cốt yếu của y lý nên biết tùy bệnh mà
tự mình cho thuốc thật hữu hiệu, phù hợp với từng căn bệnh. Họ không sao y
những bài thuốc có sẵn của người khác để áp dụng chữa bệnh một cách máy móc
giống như những y sĩ chưa nắm vững y lý. Hay như một thầy giáo đã tiêu hóa thật
kỹ môn mình dạy nên chỉ cần nói tất cả những gì đang có sẵn trong bụng không
phải lệ thuộc một bài bản nào cả. Họ có thể nói một cách sáng tạo theo đủ kiểu
đủ cách mới lạ để học sinh dễ hiểu mà vẫn luôn luôn chính xác, chứ không nô lệ
vào những giáo trình mẫu do người khác soạn sẵn.
– «cầm được rắn trong tay»:
người có đức tin đích thực ắt nhiên có tâm hồn an bình và đầy tràn tình yêu. Họ
coi mọi người – dù xấu ác hay ghét họ, muốn làm hại họ – như anh em ruột thịt
và sẵn sàng hy sinh cho những người ấy. Vì thế, họ có thể tiếp cận và sống
chung cả với những người xấu ác mà không hề bị hại, vì những người nguy hiểm
này vẫn luôn cảm nghiệm được tình thương của họ dành cho mình: không ai lại
muốn hại người đang yêu thương mình.
– «dù có uống nhằm thuốc độc cũng chẳng
sao»: tất cả những nghịch cảnh, những đau khổ trong cuộc đời không
thể làm mất được sự bình an và hạnh phúc của những người có đức tin thật sự.
Với đức tin, họ biết rằng tất cả những đau khổ hay nghịch cảnh Chúa gửi tới đều
là những hồng ân do tình thương của Ngài. Họ tin rằng: « Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi
ích cho những ai yêu mến Người» (Rm 8,28) và «những đau khổ chúng ta chịu bây giờ
sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta»
(8,18). Vì thế, họ rất vui khi đau khổ hay nghịch cảnh xảy tới, nên đau khổ hay
nghịch cảnh cỡ nào cũng không hề làm hại được họ.
– «nếu họ đặt tay trên những người bệnh,
thì những người này sẽ được mạnh khoẻ»: Ngoài ra người có đức tin
đích thực còn có sức cảm hóa và giúp những người xấu ác – là người bị bệnh về
tâm linh – trở về đường ngay nẻo chính. Họ có khả năng nâng đỡ và thêm sức mạnh
cho những người yếu đuối tinh thần. Ai gần họ cũng cảm thấy mình bình an hạnh
phúc hơn, tin vững mạnh vào Thiên Chúa, vào chính bản thân và tương lai mình
hơn.
3. «Có Chúa
cùng hoạt động» với người rao giảng Tin Mừng
Bài Tin Mừng kết thúc bằng một
câu thật tuyệt vời, làm an lòng tất cả những ai đang rao truyền Tin Mừng: «Các Tông Đồ
ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu
lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng». Điều quan trọng nhất
để việc loan báo Tin Mừng trở nên hữu hiệu – nghĩa là không chỉ giúp người ta
biết Tin Mừng, mà còn làm cho họ sống Tin Mừng nữa – đó là «có Chúa cùng
hoạt động với họ». Nhưng làm sao để có Chúa ở cùng? – Họ chỉ có Chúa
ở cùng khi họ thường xuyên ý thức sự hiện diện của Ngài, và luôn gắn bó với
Ngài bằng tình yêu chân thành có khả năng thúc đẩy họ hy sinh, dấn thân thật
sự. Nhờ đó, họ có «những dấu lạ kèm theo» xác nhận những gì
họ rao giảng là chân lý. Dấu lạ quan trọng và căn bản nhất – có khả năng thuyết
phục những người nghe họ – chính là họ đã thật sự sống được những điều họ rao
giảng. Nhờ sống điều mình nói mà lời họ nói trở nên sống động, mạnh mẽ, đầy sức
hấp dẫn, khiến người nghe luôn «tâm phục khẩu phục», đồng thời cảm nghiệm
được sự hiện diện cụ thể của Thiên Chúa ở nơi họ. Ước gì mọi người loan báo Tin
Mừng đều luôn «có Chúa cùng hoạt động» như vậy!
CẦu nguyỆn
Lạy Cha,
xin cho con biết sống đức tin của mình một cách thực tế và sống động. Vì quả
thật rất nhiều khi con tuyên xưng đức tin của mình hết sức mạnh mẽ trước mặt
mọi người, nhưng đời sống con lại chứng tỏ con chẳng tin bao nhiêu! Thế mà con
lại rao giảng thật hùng hồn về đức tin ấy khiến người nghe con cảm thấy những
lời con nói chỉ là những sáo ngữ, những lời giả dối, không thể tin nổi. Xin Cha
giúp con thật sự sống những điều con tin, và rao giảng những điều con sống.
Joan Nguyễn Chính Kết
26-5-03