TIẾNG GỌI THÂN THƯƠNG.
Chúa Nhật 4C Phục Sinh.
Làm sao tìm được
hướng đi giữa trăm ngàn nẻo đường hôm nay ?
Tìm đâu ra người mục tử có khả năng giúp quần chúng đi đúng hướng ? Bao nhiêu hiểm nguy đang chờ đón bước chân
đoàn chiên. Nhưng đoàn chiên vẫn không
sợ. Tại sao ?
GIỮA HAI BÀN TAY.
Đoàn chiên không sợ
vì đã đón nhận được tất cả lòng yêu thương trìu mến và bảo đảm vững chắc
nhất. Chính Mục tử bảo đảm : “Không ai
cướp được chúng khỏi tay tôi. Không ai
cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha.” (Ga 10:28,29) Được hai bàn tay uy quyền đó nâng đỡ, hỏi ai
có thể làm chi được đoàn chiên ? Đúng
là người tin theo Chúa được “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa.” Đó là hai thành trì vững chắc nhất che chở
đoàn chiên khỏi những giông tố trần gian.
Sở dĩ họ có thể lọt vào khoảng giữa hai bàn tay uy quyền đó, vì Chúa
Giêsu quả quyết : “Cha Tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả.” (Ga
10:29) Con chiên thuộc về vị Mục tử
vì đã nằm trong kế hoạch vĩnh hằng của Thiên Chúa. Uy quyền Chúa bao trùm cả vũ trụ. Phán quyết của Người tuyệt đối. Bởi vậy, không một nỗi lo sợ nào có thể lọt
vào trong trái tim con chiên.
Đoàn chiên thuộc
quyền sở hữu của Chủ chiên, là gia tài Chúa Cha trao phó vào tay Chúa Con. Chính con chiên là tặng phẩm quí báu nhất
Chúa Cha trao vào tay Chúa Con. Một
trong những dấu chỉ cho thấy Chủ chiên hoàn toàn làm chủ và kiểm soát được đoàn
chiên, đó là “tôi biết chúng.” (Ga 10:27)
Người làm chủ không phải để thống trị, nhưng để bảo vệ, chăm sóc, yêu
thương và đùm bọc đoàn chiên. Khác hẳn
các mục tử Ítraen, “những người chỉ biết lo cho mình, mà không chăn dắt đàn
chiên của Ta,” (Ed 34:9) Đức Giêsu luôn
lấy uy quyền toàn năng nâng đỡ đoàn chiên.
Vì hiểu biết, nên Chúa sẽ vận dụng tối đa quyền năng để ngăn ngừa đoàn
chiên khỏi mọi đau khổ,ø sự dữ và hiểm nguy đang vây bủa chung quanh.
Nguy hiểm trước tiên
cần phải ngăn ngừa đó là những tiếng gầm gừ của thú dữ, hay những lời đầy quyến
rũ đang cố lấn át tiếng gọi thân thương của Chúa. Có những tiên tri giả nhái tiếng Chúa y hệt,
làm sao con chiên có thể phân biệt được ?
Nhưng Đức Giêsu quả quyết : “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi.” (Ga
10:27) Sở dĩ không nghe được tiếng Chúa,
vì họ “không thuộc về đoàn chiên của tôi.” (Ga 10:26) Thuộc về đoàn chiên của Chúa nghĩa là tin
theo Chúa. Quả thực, không có niềm tin,
không thể thấy được như Chúa. Không tin,
cũng không thể giải thích được tại sao có nhiều người ăn ngay ở lành suốt đời
nhưng vẫn gặp toàn đau khổ, tai họa và nghèo đói. Trên đời không ai “hiền lành và khiêm
nhường” như Đức Giêsu. Với con mắt bình
thường, người ta cũng thấy không ai đau khổ và xui xẻo như Chúa. Chết oan ức vì những phán quyết bất công
trong khi cuộc đời đang lên như gió.
Chắc chắn Đức Giêsu phải được Chúa Cha yêu thương đặc biệt hơn mọi
người, vì chính Chúa Cha đã xác nhận : “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển
chọn.” (Lc 9:35) Cứ sự thường Người phải
được bảo vệ chặt chẽ khỏi mọi đau khổ và hiểm nguy. Thế nhưng, Người đã đón nhận cái chết tất
tưởi trên thập giá giữa bao lời chế nhạo, khinh chê và chửi rủa. Cái chết của Người không phải là một bằng
chứng bất lực của tình yêu Thiên Chúa.
Thực vậy, Thiên Chúa đã chứng tỏ quyền năng vô hạn nơi cuộc phục sinh
của Đức Giêsu. Phục sinh chính là đối
tượng của lòng tin chứ không phải của khoa học.
Nói khác, chỉ có niềm tin mới thấy được quyền năng Thiên Chúa nơi những
nghịch lý cuộc đời hôm nay. Có tin, mới
có thể phóng tầm nhìn xa hơn cõi đời này, để thấy việc theo Chúa hôm nay là hợp
lý, vì Chúa quả quyết : “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng
phải diệt vong.” (Ga 10:28) Phục sinh
chính là một bảo đảm cho cuộc sống đích thực.
Không phải đợi tới
sau khi chết, cuộc sống đời đời mới xuất hiện.
Ngay từ bây giờ, Thiên Chúa “đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết,
cũng sẽ dùng Thần khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác phải
chết của anh em được sự sống mới.” (Rm 8:11)
Sự sống mới đó chính là sự phục sinh do Đức Giêsu thực hiện nơi những ai
đặt trót niềm tin vào Người. Thực vậy,
Đức Giêsu chia sẻ một quyền bính với Chúa Cha, khi quả quyết : “Tôi vàChúa Cha
là một.” (Ga 10:30) “Lời này hé mở một
sự hợp nhất rộng hơn và sâu xa hơn (x.8:29; 10:38; 14:10; 17:11,21,22,23)”
(TKTƯ 1995:440) Ở đây Đức Giêsu quả
quyết “Người chia sẻ trọn vẹn công việc
của Thiên Chúa. Thiên Chúa chia sẻ quyền
hành Thiên Chúa với Đức Giêsu trên sự chết, sự sống và phán xét thời cánh
chung.” (NIB 1995:677) Nếu Chúa Cha đã
có thể dùng Thần Khí phục sinh Chúa Con, chắc chắn Chúa Con cũng có thể phục sinh
những người tin vào Chúa bằng chính Thần khí đó. Đó là một bằng chứng “người tín hữu cũng được
thông phần vào vinh quang mà Đức Giêsu có do Chúa Cha sau cái chết của
Người. Họ cũng trở thành nơi vinh quang
của Đức Kitô tỏ hiện.” (TKTƯ 1995:472)
Đó là lý do tại sao, các thánh tử đạo vẫn reo vang niềm vui phục sinh
giữa rừng gươm giáo gậy gộc.
Tất cả đều bắt nguồn
từ mạc khải : “ Chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương
con.” (Ga 17:23) Tình yêu được chia sẻ
trọn vẹn và chan hòa đến các tín hữu.
Nhưng ai sẽ là tín hữu ? Phải
chăng là con cháu Abraham như Thiên Chúa
tiền định ? Ông Phaolô đã nói thật với
người Do thái, những người vẫn tự hào là con cái Abraham : “Anh em phải là
những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ
lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi
quay về phía dân ngoại.” (Cv 13:46) Thế
là từ nay, những người cứ tưởng được tiền định lại bị lọt sổ. Còn những người tưởng bị lên án, lại được
Thiên Chúa xót thương. Thực ra, tất cả
không ra ngoài đường lối quan phòng đầy yêu thương của Chúa. Thánh Phaolô xác tín : “vì Chúa truyền cho
chúng tôi thế này : Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu
độ đến tận cùng cõi đất.” (Cv 13:47)
Biên giới Nước Chúa không đóng khung trong dân tộc Do thái, nhưng mở
rộng tới khắp tứ phương thiên hạ. Việc
truyền giáo cho dân ngoại đã phát triển rất nhanh nhờ người Do thái khước từ
Tin Mừng (Rm 11:11tt). Họ “ngược đãi
ông Phaolô và ông Banaba, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ.” (Cv
13:50) Nhờ rảnh tay với đồng bào, vị
Tông Đồ dân ngoại đã dồn hết nỗ lực cho muôn dân. Đúng hơn, “nhờ Thánh Linh hướng dẫn Giáo hội,
lệnh truyền của chính Đức Giêsu (Cv 1:8) và sứ mệnh tiền định của Phaolô đã
được hoàn thành (9:15)” (Faley 1994:326)
Chính vì thế, thay vì buồn tủi vì sự ngược đãi của anh em, “các môn đệ
được tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần.” (Cv 13:52) Nhờ đó, các ông mới đủ nghị lực và hăng say
đến với dân ngoại. Từ nay Dân Chúa
“thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ.” (Kh 7:9) Dù vậy, Nước Chúa không bị lệ thuộc bất cứ
nền văn hóa hay dân tộc nào.
PHỤC VỤ CON NGƯỜI.
Làm sao có thể phục
vụ nhân loại trong một chiều kích lớn lao đó ?
Mọi người sống trên mặt đất đều là con của đất. Nhưng thử hỏi mẹ đất có được đôi bàn tay như
Thiên Chúa nâng đỡ con người không ?
Noi gương Thày chí thánh, Giáo hội không ngừng tìm cách làm cho đôi bàn
tay Mẹ đất cũng có một vẻ đẹp giống như bàn tay Cha trên trời. Vì con người cũng là hình ảnh của Cha trên
trời, là con Thiên Chúa như Đức Giêsu.
Bởi thế, con người là một tặng phẩm cao quí đáng được cả bàn tay Thiên
Chúa lẫn mẹ đất chăm sóc. Sống giữa trăm
ngàn khổ đau, con người cần phải được cứu độ, để những giá trị cao cả không bị
vùi lấp đi với thời gian. Muốn thế, một mình Giáo hội không đủ khả năng. Bởi vậy, Giáo hội không ngừng kêu gọi mọi
người thiện chí hợp tác để đem lại cho thế giới một nền hòa bình và ấm no thực
sự.
Nỗ lực đó đòi nhiều
thời gian và phải bắt đầu từ sự kiên trì giáo dục con người. Góp phần đào tạo con người, “nhà trường Công
giáo nên là ‘những cộng đồng đức tin và phúc âm hóa năng động.’ Vào thời các bạn trẻ phải đối diện với một
tương lai bất định vì sự toàn cầu hóa, văn hóa đảo lộn, chủ thuyết luân lý
tương đối, và sự sụp đổ đời sống gia đình, nền giáo dục Công giáo nên cung cấp
cho học sinh một cơ hội ‘đạt đến sự trưởng thành về nhân bản, luân lý, và
thiêng liêng. Nhờ được trang bị đặc tính
kiên cường đó, chính các học sinh có thể trở thành những người tham gia tích
cực vào việc tạo nên một thế giới công lý và hòa bình hơn.’” (ĐGH Gioan Phaolô
II, CWNews 30/04/2001) Không có một cái
nhìn trung thực về con người không thể đào tạo con người theo chiều hướng tốt
đẹp đó. Thực vậy, nếu bị tha hóa vì
những nhu cầu kinh tế và chính trị, làm sao con người có thể thấy được giá trị
đích thực nằm sâu trong nhân tính và hoạt động nhân loại ? Ngay từ nhỏ nếu
không được đào luyện theo hướng trung thực nhằm phục vụ nhân loại hữu hiệu hơn,
làm sao con người có khả năng nhìn thấy nhu cầu lớn lao của người khác ? Nếu được đào luyện trong một văn hóa cứng
ngắc và chật hẹp, chắc chắn con người không thể thấy hết những chiều kích đích
thực của con người. Do đó, một cái nhìn
hạn hẹp có thể giết chết con người và phá hủy xã hội.
Nhưng nếu đẩy con
người lên mức toàn cầu hóa mà cũng chỉ giới hạn trong những phát triển kinh tế
và kỹ nghệ, con người vẫn không thể phục vụ đúng mức. Chỉ lo tới việc phát triển những giá trị thị
trường, tất nhiên chính con người có thể bị quên lãng. Chỉ phục vụ phương tiện, còn cứu cánh là con
người lại bị bỏ rơi hay chà đạp. Bởi
đấy, “tiến trình toàn cầu hóa phải được ‘kiểm soát’ để kìm hãm những lạm
dụng. Việc toàn cầu hóa không thể trở
thành một hình thức tân thuộc địa.” (ĐGH Gioan Phaolô II, CWNews
27/04/2001) Nhân loại đã quá đau khổ vì
những chính sách thuộc địa đầy tham vọng trong quá khứ. Không thể để bóng ma đó lại đè bẹp tương lai
nhân loại. Nói khác, việc toàn cầu hóa
có thể loại trừ những nước kém mở mang và dành ưu đãi cho những nước phát
triển. Cộng đồng nhân loại cũng như cộng
đồng dân Chúa không thể dành ưu đãi cho bất cứ hạng người nào. Mọi người đều bình đẳng vì đều được Thiên
Chúa yêu thương.
Muốn đạt được mức
tiến bộ thực sự trong việc toàn cầu hóa, mọi người phải lấy con người làm
gốc. Muốn thế, “các nhà lãnh đạo phải
‘đặc biệt chú ý tới những hàm ẩn luân lý’ trong tiến trình toàn cầu hóa.” (ĐGH
Gioan Phaolô II, CWNews 27/04/2001) Nếu
không, tất cả tương quan xã hội đều qui về các yếu tố kinh tế. Nói khác, “thị trường đã áp đặt lối suy nghĩ
và hành động của nó, và ghi dấu bậc thang giá trị của nó trên cách cư xử. Những người tùy thuộc vào đó thường thấy thị
trường như một nạn lụt phá hoại, đe dọa những qui luật xã hội và văn hóa đã
hướng dẫn họ trong cuộc sống. ” (ĐGH Gioan Phaolô II, VietCatholic
1/5/2001)
Tuy thế, việc toàn
cầu hóa “ngày càng gia tăng việc hủy bỏ những rào cản di dân, chuyển vốn và
hàng hóa.” (ĐGH Gioan Phaolô II, CWNews 27/04/2001) Chỉ cần một chút ý thức và kiểm soát, việc
toàn cầu hóa có thể trở nên hoàn hảo và ích lợi cho nhân loại. Tự bản chất “việc toàn cầu hóa không tốt
không xấu. Nó sẽ trở thành cái gì tùy
nhân loại” (ĐGH Gioan Phaolô II, CWNews 27/04/2001) có biết xây dựng việc toàn cầu hóa trên nguyên tắc tôn trọng
con người và những khác biệt văn hóa giữa các dân tộc hay không. Phải chăng toàn cầu hóa là cơ hội lớn Chúa mở
ra cho Giáo hội đến với muôn dân như thánh Phaolô xưa ? Giáo hội cần phải mở tung nhãn giới để lợi
dụng cơ hội phục vụ nhân loại ngày càng hữu hiệu hơn. Biết đâu trên bước đường toàn cầu hóa, nhiều
con chiên sẽ có cơ hội “nghe tiếng Chúa” và “theo Chúa” để hưởng tất cả những
êm dịu của bàn tay Thiên Chúa toàn năng !
Phải chăng đây là lúc Thiên Chúa “sẽ đem chúng ra khỏi các dân, tập hợp
chúng lại từ các nước và đưa chúng vào đất của chúng,” (Ed 34:13) để vui hưởng
cảnh hòa bình ?!
Lm. Giuse Đỗ vân Lực,
OP