HI VỌNG ĐÃ VƯƠN LÊN
Chúa Nhật C Ba Ngôi
Hi vọng là động lực
sống. Hướng sống và niềm vui sẽ mất đi,
nếu không còn niềm hi vọng. Nhưng làm cách
nào nuôi niềm hi vọng trong tâm hồn ? Đó
là bí quyết của Thánh Linh. Chỉ niềm tin
nào đem lại hi vọng, mới có giá trị và tồn tại.
NGUỒN HI VỌNG.
Cuộc sống luôn có những biến động.
Niềm hi vọng luôn bị đe dọa khi gặp những khó khăn. Nhưng không phải bất cứ ai gặp khó khăn đều đánh
mất niềm hi vọng. Niềm hi vọng cũng huyền
nhiệm như niềm tin Kitô giáo. Đó là lý
do tại sao phải tìm hiểu niềm hi vọng do Ba Ngôi Thiên Chúa đã dành cho chúng
ta !
Trước hết, chỉ có Thiên Chúa mới đem lại và bảo đảm niềm hi vọng
cho chúng ta. Vì niềm hi vọng bắt nguồn
từ Thánh Linh. Quả thế, “chúng ta không
phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ
Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.” (Rm 5:5) Tình yêu Thiên Chúa là nguồn hi vọng, vì
chính trong tình yêu, Thiên Chúa đã sáng tạo và cứu độ. Không có tình yêu, chẳng có một giá trị nào
hiện hữu và tồn tại. Bởi vậy, Thiên Chúa
đã đặt nền tảng niềm hi vọng trên tình yêu tức là Thánh Linh. Chẳng có gì tạo nổi niềm hi vọng ngoài tình
yêu Thiên Chúa ! Thiên Chúa yêu thương
chúng ta mãnh liệt và sâu đậm, nên niềm hi vọng của chúng ta chắc chắn phải lớn
lao và bền vững hơn bất cứ thực tại nào trên trần gian.
Nhưng tình yêu chưa đủ ! Thiên
Chúa muốn niềm hi vọng phải đặt vào đúng chỗ.
Mù quáng chỉ dẫn tới ảo tưỡng và sụp đổ. Cần phải có sự thật nữa. Bởi thế, Đức Giêsu mới hứa : “Khi nào Thần
Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn.” (Ga 16:13) Sự thật về Thiên Chúa và sự thật về con người
! Không thấy được sự thật toàn vẹn, con
người không thể được giải thoát. Không được
giải thoát, không có tình yêu và niềm hi vọng đích thực. Thánh Linh đưa các môn đệ vào sự thật toàn vẹn
của tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên
Chúa vô cùng mãnh liệt và cao cả khiến các môn đệ không thể hiểu nổi. Quả thực, nếu không có Thánh Linh soi sáng, làm
sao nhận ra ơn cứu độ lớn lao nơi cái chết và phục sinh của Đức Kitô ?
Thần Khí chính là sự khôn ngoan, “một sự khôn ngoan soi sáng cho thấy
ý nghĩa thực tại.” (Faley 1994:387) Thánh
Linh “luôn hiện diện với Thiên Chúa trong toàn thể tiến trình tạo dựng.” (Faley
1994:384) Ngườiø luôn hoạt động để tạo
dựng một vũ trụ có trật tự. Cuộc tạo dựng
không chỉ xảy ra trong vũ trụ, nhưng cả trong Giáo hội nữa. Thần khí không chỉ
hoạt động trong thời gian viết Thánh Kinh ! Nhưng Người còn hoạt động trong Giáo
hội qua dòng thời gian nữa ! Muốn bảo
vệ sự thật toàn vẹn, Người phải làm việc trong trật tự. Cứ nhìn vũ trụ sẽ thấy công việc Thánh Linh
làm trong Giáo hội, không thể theo ngẫu hứng hay tình cảm cá nhân !
Hơn nữa, Thánh linh còn đưa các môn đệ vào sự thật toàn vẹn về con
người. Mục đích cuối cùng của mạc khải là
giao hòa con người với Thiên Chúa và anh em.
Nhưng làm sao giao hòa với Thiên Chúa và anh em, nếu con người không biết
hết sự thật về chính mình và những tương quan vô cùng phong phú của mình ? Không có gì khó bằng khám phá chính
mình. Nhưng Thánh Linh sẽ giúp con người
nhận ra sự thật khó khăn đó. Khi biết rõ
chính mình, con người sẽ khiêm tốn hơn và hạnh phúc hơn. Khi biết rõ tương quan sâu xa giữa mình và
Thiên Chúa cũng như tha nhân, con người sẽ thấy mình phải cố gắng tới mức nào. Vì chính trong tương quan này, con người sẽ
tìm được hạnh phúc tròn đầy. Chỉ trong
tương quan với anh em, con người mới trở nên hình ảnh Thiên Chúa đích thực. Vì tự bản chất, Thiên Chúa là một tương
quan. Nếu không, đã chẳng có Ba Ngôi
trong một Thiên Chúa. Trong các tương
quan phản ánh tình yêu Thiên Chúa nhất, chúng ta phải kể đến gia đình. Chính trong gia đình, con người cảm nghiệm được
tình yêu thắm thiết của Ba Ngôi. Càng
chia sẻ sâu xa tình yêu gia đình, càng đi sâu vào huyền nhiệm Thiên Chúa.
Huyền nhiệm Thiên Chúa chính là sự thật toàn vẹn, đối tượng của niềm
tin. Bởi vậy, được đưa vào sự thật toàn
vẹn là “được nên công chính nhờ đức tin,” tức là được tham dự vào đời sống Thiên
Chúa. Đời sống Thiên Chúa chan hòa bình
an ! Không biết được sự thật toàn vẹn đó,
cuộc sống sẽ tràn ngập đau khổ. Trái lại,
nhờ Thánh Linh, mọi vấn đề sẽ được giải quyết, kể cả vấn đề đau khổ. Tín hữu không những không sợ đau khổ, nhưng
nhờ ân sủng của Thiên Chúa, họ “còn tự hào khi gặp gian truân.” (Rm 5:3) Tín hữu không tìm cách diệt trừ hay phủ nhận
đau khổ. Vì đau khổ dính liền với thân
phận làm người. Nhưng họ quan niệm đau
khổ là một thử thách cần phải vượt qua.
Cuộc vượt qua thử thách đó không dựa vào sự thật bình thường, nhưng vào
sự thật toàn vẹn do Thánh Linh mạc khải.
Càng đi sâu vào sự thật toàn vẹn về Thiên Chúa và con người, càng được
giải thoát. Càng được giải thoát, càng
vui tươi và bình an. Chính Thánh Linh cảm
thấy được niềm vui đó khi từ sự thật Thiên Chúa mà đến. Người mạc khải : “Ngày ngày ta là niềm vui của
Người, trước mặt Người, ta không ngớt vui chơi, vui chơi trên mặt đất, ta đùa
vui với con cái loài người.” (Cn 8:30-31)
Lối nhìn trần giới hoàn toàn khác hẳn.
Khôn ngoan mang bộ mặt trang trọng, chứ không thể đi đôi với “vui chơi”. Nhưng chính niềm vui mới là dấu chỉ hi vọng
lớn lao. Đó là lý do tại sao niềm vui
tràn ngập tuổi trẻ đầy hi vọng. Hơn nữa,
càng khôn ngoan càng chứng tỏ đã nắm được chân lý toàn vẹn. Càng nắm chắc chân
lý toàn vẹn, càng đặt được nền tảng sâu xa cho niềm hi vọng và niềm vui. Do đó,
có một tương quan sâu xa giữa niềm hi vọng và sự khôn ngoan, sự khôn ngoan bắt
nguồn từ niềm tin nơi Thiên Chúa.
Đó là lý do tại sao niềm tin phát sinh hi vọng. Chính thánh Phaolô quả quyết : “Còn chúng tôi
thì nhờ Thần khí và dựa vào đức tin mà vững lòng chờ đợi được nên công chính như chúng tôi hi vọng.” (Gl
5:5) Khi đặt niềm tin nơi Thiên Chúa,
con người có thể tìm được niềm hi vọng vững chắc, vì Thiên Chúa hằng hữu. Thực vậy, “vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã
mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện
nay ; chúng ta lại còn tự hào về niềm hi vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.” (Rm 5:2) Đức tin là bảo đảm cho chúng ta đạt được niềm
hi vọng ngay tự đời này dù đầy những bất trắc.
Hơn nữa, đức tin còn có thể giúp con người bình an giữa cuộc đời đầy sóng
gió. Thật vậy, “chúng ta còn tự hào khi
gặp gian truân, vì biết rằng : ai gặp gian truân thì quen chịu đựng ; ai quen
chịu đựng, thì được kể là người trung kiên ; ai được công nhận là người trung
kiên, thì có quyền trông cậy.” (Rm 5:3-4)
“Ngay cả những thử thách cũng góp phần giúp con người hi vọng đạt tới
vinh quang, và sự chịu đựng sinh ra sức mạnh củng cố niềm hi vọng. Đó là niềm hi vọng có nền tảng, chứ không phải
chỉ là ước vọng suông.” (Faley 1994:386)
Niềm hi vọng là cao điểm qui tụ tất cả sức mạnh của người tín hữu. Không có hi vọng, không ai còn hứng khởi để
vượt qua những thử thách muôn mặt. Khi đã
vượt qua những thử thách đó, con người có thể hãnh diện và đầy hi vọng. Nhưng sức mạnh nào đã giúp họ vượt qua thử thách,
nếu không phải là Thánh Linh ? Có vượt
qua thử thách của đức tin, chúng ta mới có thể theo Đức Giêsu vào chung hưởng ân
sủng Thiên Chúa. Chính đức tin và hi vọng
khiến Kitô hữu khác hẳn với mọi người.
Bình thường ai cũng run sợ trước đau thương thử thách. Nhưng người Kitô
hữu như tràn đầy hứng khởi và tự hào vì được trở nên giống Đức Kitô đau khổ
trong sứ mệnh cứu độ. Quả thế, thập giá
là “sức mạnh cứu độ của Thiên Chúa.” (1 Cr 1:18) Nếu không trung kiên gắn bó với thánh ý Thiên
Chúa, chắc chắn Đức Giêsu đã không thể đem lại vinh quang cho Thiên Chúa. Bởi
thế, ai trung kiên mới có quyền hi vọng !
Niềm hi vọng này lại trở thành mấu cứ cho niềm tin và tình yêu. Quả thực, “lòng tin và lòng mến đó phát xuất
từ niềm trông cậy dành cho anh em trên trời, niềm trông cậy anh em đã được nghe
loan báo khi lời chân lý là Tin Mừng đến với anh em.” (Cl 1:5) Lời chân lý gieo niềm hi vọng cứu độ vì phát
xuất từ Thiên Chúa và do chính Thánh Linh loan báo. Quả thế, Thần Khí “sẽ không tự mình nói điều
gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em
biết những điều sẽ xảy đến.” (Ga 16:13)
Thánh Linh loan báo một tương lai vững chắc, chắc như chính “những biến
cố vào giờ Chúa Giêsu vậy.” (NIB 1995:773)
Không phải Thánh Linh sẽ cho người tín hữu biết trước tương lai. Thật vậy, theo Bultmann, “người tín hữu chỉ có
thể đo lường được tầm quan trọng và họ mức chịu đựng khi thực sự đụng đầu với
thực tế. Họ có thể đoán trước tương lai
trong niềm tin, chứ không biết trước về kiến thức.” (NIB 1995:773) Nếu thế, Lời Chúa vô cùng cần thiết để củng cố
lòng tin trước bất cứ thử thách bất ngờ nào.
Bởi vậy, vai trò Thánh Linh vô cùng quan trọng trong việc trao Lời Chúa
cho cộng đoàn niềm tin và trong tương lai (x. NIB 1995:773) Hoàn thành trọng trách đó, Thánh Linh sẽ đem
lại vinh quang cho Chúa Cha và Chúa Con.
Thật vậy, “Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì là của Thầy
mà loan báo cho anh em.” (Ga 16:14) Loan báo Tin Mừng vừa cứu độ muôn dân vừa
vinh danh Thiên Chúa.
CHIỀU HƯỚNG MỚI
Thánh Linh đã thực sự trở thành ngôi vị không thể thiếu trong công
cuộc cứu độ. Điều kiện thực tế không cho
phép các môn đệ hiểu tất cả những gì Chúa mạc khải trong một lúc. Cái gì cũng phải đợi thời gian mới chín mùi
được ! Chính Chúa đã nói rõ điều đó :
“Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu
nổi.” (Ga 16:12) Chúa Giêsu cũng tôn trọng
trình tự thời gian. Người cũng không thể
đi trước thời gian hay giẫm chân lên Chúa Thánh Thần. Tương lai thuộc về Thánh Linh. Chính Thánh Linh vừa tiếp tục công cuộc mạc
khải vừa ban sức mạnh và ánh sáng để các môn đệ được nâng lên mà nắm chắc nguồn
hi vọng là Lời Chúa. Không thể tiên đoán Thánh Linh đi xa tới mức nào trong tương
lai Giáo hội. Công đồng Vatican II chứng
tỏ Thánh Linh đã làm một cuộc “hiện xuống mới” giữa thời đại hôm nay. Cuộc hiện xuống mới bắt đầu với cánh cửa Giáo
hội mở ra thế giới. Từ sau Vatican II,
Giáo hội không còn tự cho mình ở trên và tách lìa trần gian. Trái lại, “Thánh Linh trong công đồng đại kết
đã dẫn Giáo hội qua một tiến trình tự đánh giá sâu sắc về mình như thành phần
thế giới.” (Faley 1994:388) Từ nay, Giáo
hội không còn chỉ thấy Chúa hiện diện trong Thánh Kinh, truyền thống, các nghi
thức phụng vụ, “nhưng cả trong các biểu tượng và nghi thức từ các văn hóa và tôn
giáo khác nữa.” (Heim 1998:14) Nhờ Thánh
Linh hướng dẫn, Giáo hội còn “tìm sự hiện diện Thiên Chúa trong hoàn cảnh của
người nghèo và bị bách hại, trong các tôn giáo thế giới, và các giáo hội Kitô
giáo khác. Có một sự khôn ngoan vô hạn
trong tất cả những thực tại này, một sự khôn ngoan làm giàu cho đức tin.”
(Faley 1994:388) Khi đã thoát khỏi tình
trạng tự giam hãm mình trong vòng Công giáo chật hẹp, Giáo hội có nhiều ảnh hưởng
và tương quan phong phú hơn. Giáo hội đã
bắt gặp nhiều cách diễn tả và cảm nghiệm khác nhau về sự thật nơi các tôn giáo
khác và các anh em Tin Lành. Thánh Linh
đã đánh thức Giáo hội sau bao thế kỷ triền miên trong những giới hạn nhân
gian.
Dĩ nhiên cuộc đối thoại với các tôn giáo và anh em Tin Lành không được
xa rời nguyên tắc “trung thành với Chúa
Kitô và xác tín về ơn cứu độ dành cho mọi người.” (Heim 1998:26) Phong trào đại kết đã có kinh nghiệm sâu
xa về liên tôn và suy tư về “hệ thống chân lý và những khả năng hiệp nhất không
dựa nhiều trền việc đồng thuận hoàn toàn về giáo lý.” (Heim 1998:13) Đó là chiều cạnh lý thuyết cần thiết cho cuộc
đối thoại. Về mặt thực tế, không thể không
nghĩ đến những nỗ lực của các nhà truyền giáo trong các thế kỷ qua. Kinh nghiệm Alexandre de Rhodes, Nobili,
Ricci cho thấy việc hội nhập văn hóa rất cần thiết cho việc rao giảng Tin Mừng. Nói khác, “việc lột xác trong việc truyền giáo
đòi phải đối thoại với các tôn giáo khác, hoặc ở mức độ thân thiện, giáo thuyết,
hành động xã giao, hay kinh nghiệm tôn giáo.” (Heim 1998:14) Hơn nữa, cần phải “chú ý tới tôn giáo phổ quát,
thường gồm những yếu tố giao lưu văn hóa và tôn giáo đa nguyên.” (Heim
1998:14) Chính Thánh Linh sẽ hướng dẫn
Giáo hội khi mở ra chiều hướng quá sâu rộng và phong phú như thế. Thực tế, Giáo hội vẫn tin rằng “ý thức đức
tin (sensus fidei) sẽ cung cấp một nền tảng luận lý đểû đánh giá về hình
thức biểu tượng của hòa điệu đa nguyên này.” (Heim 1998:14)
Thánh Linh đang mở ra một mùa xuân tràn đầy hi vọng trong lòng Giáo
hội, niềm hi vọng phát xuất tự và cũng phát sinh ra lòng tin và tình yêu. Tương quan bộ ba tin cậy mến thật là huyền
nhiệm, huyền nhiệm như chính Ba Ngôi Thiên Chúa. Chính tương quan đó đã mở ra cho Giáo hội
những chiều hướng mới đi vào một thế giới đang ngóng chờ Thiên Chúa thực hiện lời
hứa cứu độ
Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP