Lễ
Chúa Ba Ngôi
(Gio-an 16: 12-15)
Khi
nói về Thiên Chúa Ba Ngôi, ta quen thuộc với những hình ảnh Chúa Cha là Đấng
tạo dựng, Chúa Con là Đấng cứu chuộc và Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa. Quả thực Ba Ngôi gắn liền với cuộc đời và số
phận của ta. Nhưng trong thần học của
Tin Mừng Gio-an, Chúa Ba Ngôi thường được diễn tả qua mối liên hệ sống động với
ta, đặc biệt trong việc Thiên Chúa tỏ ra những gì Người muốn ta tiếp nhận hoặc
lắng nghe. Thánh sử Gio-an gọi tất cả
những điều Thiên Chúa muốn cho ta biết qua Chúa Giê-su là sự thật toàn
vẹn. Đoạn Tin Mừng hôm nay giúp ta suy
niệm những công việc của Ba Ngôi làm để ta nhận ra được “mọi kích thước dài
rộng cao sâu và nhận biết tình thương của Đức Ki-tô, là tình thương vượt qua sự
hiểu biết” (Ep 3:18).
1) “Thiên Chúa đã phán dạy
chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1:2)
Giữa Thiên Chúa và con người
có một khoảng cách vô biên, ta không thể tự sức mình biết được những gì về
Thiên Chúa nếu chính Người không tỏ ra cho ta.
Tuy nhiên, Chúa đã nối liền khoảng cách ấy bằng cách sử dụng một số
người được tuyển chọn để nói thay cho Người.
Họ là các vị ngôn sứ, chuyển đạt cho ta những điều Thiên Chúa muốn mặc
khải bằng ngôn ngữ loài người. Nhưng ngôn
ngữ loài người có giới hạn, nên mặc dù Thiên Chúa đã “nhiều lần nhiều cách” (Dt
1:1) nói với con người qua các vị ngôn sứ, các vị ấy vẫn không thể diễn đạt
được hết những gì Thiên Chúa muốn nói.
Kinh Thánh Cựu Ước là sưu tập những điều Thiên Chúa “phán dạy cha ông
chúng ta qua các ngôn sứ”, nói về những gì Thiên Chúa làm cho ta và những gì ta
phải thực thi để sống xứng đáng là con cái Người. Thế mà kết quả của những lần “nói thay Thiên
Chúa” chẳng là bao. Thiên Chúa đã thay
đổi đủ kiểu đủ cách để củng cố mối quan hệ mà con người vẫn xa dần.
Chẳng lẽ Thiên Chúa phải thất
bại? Không bao giờ. Thiên Chúa còn một cách cuối cùng, Người sử
dụng cách ấy “vào thời sau hết này”. Đó
là Người dùng chính Ngôi Lời để nói với nhân loại. Không phải nói bằng Lời uy quyền như ta
thường nghe trong Cựu Ước: “Chúa phán”,
nhưng bằng lời thông thường của con người dùng để nói với nhau. Không phải bằng Lời từ trời cao vọng xuống
cõi trần, nhưng là Lời “đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga
1:14). Từ đây, Thiên Chúa nói với ta
bằng toàn bộ ngôn ngữ loài người, từ tiếng nói bập bẹ của trẻ thơ tới lời lẽ
của người lớn, từ những cử chỉ nhỏ nhặt cho tới tất cả lối sống, để cho con
người thấy thế nào là kiếp người, thế nào là một người con Thiên Chúa. Trong ba năm rao giảng Tin Mừng, Lời đã trở
thành những bài giảng đơn sơ dễ hiểu, nhưng chứa đựng những chân lý ngàn đời,
bày tỏ những mầu nhiệm của Thiên Chúa.
Nhưng đặc biệt nhất, ngôn ngữ của Chúa Giê-su là ngôn ngữ của yêu
thương, diễn tả không chỉ bằng lời nói, nhưng bằng những nghĩa cử đầy tình yêu,
yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân đến chết trên thập giá. Đó là tột đỉnh của ngôn ngữ Thiên Chúa muốn
nói với nhân loại: Thiên Chúa yêu thế
gian đến nỗi đã ban Con Một.
2) “Thầy còn nhiều điều phải
nói với anh em”
Cả
một đời Chúa Giê-su là để nói lên sự thật toàn vẹn rằng Thiên Chúa yêu thương
nhân loại. Nhưng bây giờ vào lúc Người
đang đàm đạo với môn đệ trước khi chịu cuộc Thương Khó, sự thật toàn vẹn vẫn
chưa được tỏ lộ. Nó chỉ được tỏ lộ đầy
đủ khi Chúa Giê-su chết trên thập giá để minh chứng Thiên Chúa yêu thương nhân
loại đến mức độ nào.
Tất
cả những giáo lý và mặc khải Thiên Chúa muốn dạy con người đã được trình bày
qua lời giảng và lối sống của Chúa Giê-su.
Nhưng Chúa lại nói Người còn nhiều điều phải nói với môn đệ, vậy “nhiều
điều” ấy là gì? Là tất cả những gì sẽ
xảy ra trong cuộc Thương Khó, cái chết, sự sống lại và vinh hiển của
Người. Tóm lại là ý nghĩa của mầu nhiệm
Ki-tô, một mầu nhiệm cần phải được thấm nhập vào ta, biến đổi ta thành “dưỡng
tử” của Thiên Chúa và “đồng thừa tự” với Đức Ki-tô.
Mầu
nhiệm Đức Ki-tô không chỉ là một mầu nhiệm đem ra học hỏi như một môn học thuần
lý, nhưng là một mầu nhiệm thực hành để suy niệm, chiêm ngưỡng và sống, như
thánh Phao-lô đã nêu gương. “Với tôi,
sống là Đức Ki-tô”, hoặc “Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà là Đức Ki-tô
sống trong tôi”. Mầu nhiệm Ki-tô là lời
Thiên Chúa muốn nói với nhân loại và nhân loại có bổn phận phải lắng nghe và
đón nhận, giống như “hạt giống rơi nhằm đất tốt nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt
được ba chục” (Mt 13:8).
3) “Khi nào Thần Khí sự thật
đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”
Chúa Cha nói với ta.
Chúa Con là tất cả những điều Chúa Cha nói với ta. Nhưng làm sao ta hiểu được những điều Chúa
Cha nói, đó là vai trò của Chúa Thánh Thần.
Chúa Cha phán dạy ba môn đệ trên núi Ta-bô-rê: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời
Người” (Mc 9:7). Hãy vâng nghe lời Người
nghĩa là nghe Người dạy dỗ, nhưng nhất là biết nhìn nhận ra sứ mệnh cứu thế của
Người và tin vào Người. Chúa Cha cũng đã
nhắc nhở điều này: “Để ai tin vào Con
của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3;16). Các môn đệ đã đi theo Chúa Giê-su một thời
gian khá dài. Vậy mà các ông vẫn không
nhận rõ thân thế, sự nghiệp và sứ mệnh của Người. Các ông phải đợi tới khi Chúa Thánh Thần hiện
xuống, “xuất hiện những hình lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần”
(Cv 2:3-4), dần dần các ông mới thấu hiểu được “nhiều điều khác” Chúa Giê-su
chưa thể nói vì các ông “không có sức chịu nổi” (Ga 16:12).
Vai trò của Chúa Thánh Thần là giúp ta hiểu Lời của Thiên
Chúa, tức là tất cả những điều Kinh Thánh đã được ứng nghiệm nơi con người Đức
Ki-tô. Chúa Thánh Thần không chỉ hoạt
động khi linh hứng cho các tác giả viết xuống lời Chúa, nhưng vẫn tiếp tục hoạt
động nơi ta khi ta đọc và suy niệm lời Chúa.
Tuy nhiên, hiểu lời Chúa không chỉ bằng trí óc, mà phải hiểu bằng đời
sống của ta. “Ai đến với Thầy, và nghe
những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em biết người
ấy ví được như một người khi xây nhà đặt nền móng trên đá” (Lc 6:47-48). Lời Chúa nếu không được Chúa Thánh Thần tác
động thì cũng chỉ trơ trơ ra đó, không ích lợi gì cho ta. Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần chỉ đưa ta “tới sự
thật toàn vẹn” khi ta cộng tác với sự hướng dẫn của Người. Tiếp nhận trong thái độ mở lòng là công việc
của ta, còn làm cho Lời sinh hoa kết quả là công việc của Chúa Thánh Thần.
Chỉ bảo dạy dỗ ta là công việc linh hoạt của Ba Ngôi Thiên
Chúa, mục đích giúp ta được dần dần biến đổi thành tạo vật mới để “được sống
muôn đời”. Chúa Cha nói với ta mọi giây
mọi phút trong cuộc đời, Chúa Con hiện diện với ta “mọi ngày cho đến tận thế”
và Chúa Thánh Thần đang trên đường dẫn ta “tới sự thật toàn vẹn”. Một cách đặc biệt, Thiên Chúa Ba Ngôi đang
sống trong ta, nhưng liệu ta có “sống” mầu nhiệm Ba Ngôi hay không thì lại là
vấn đề khác.
4) Suy
nghĩ và cầu nguyện
Ba Ngôi Thiên Chúa là một mầu nhiệm. Vậy tôi đã tránh né không nghĩ đến vì không
thể hiểu, hay vì tôi không nhận ra khía cạnh thực hành?
Tôi có xác tín mình cần “nghe” được tất cả những gì Thiên
Chúa muốn “nói” với tôi qua Chúa Ki-tô và “hiểu/sống” những điều ấy nhờ Chúa
Thánh Thần không? Toi sẽ làm gì để nghe
và thực hành lời Chúa?
Cầu nguyện
“Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng con tôn thờ,
xin giúp con quên mình hoàn toàn
để ở lại trong Chúa,
lặng
lẽ và an bình
như
thể hồn con đã sống trong vĩnh cửu.
lạy
Đấng thường hằng bất biến,
mong
sao không gì có thể khuấy động sự bình an của con,
hay
làm cho con ra khỏi Chúa;
nhưng
ước chi mỗi phút lại đưa con
tiến
xa hơn vào chiều sâu của mầu nhiệm Chúa!
Xin
làm cho hồn con bình an thanh thản,
xin
biến hồn con thành chốn trời cao,
thành
nơi cư ngụ dấu yêu của Chúa,
nơi
Chúa nghỉ ngơi.
Ước
chi
con
không bao giờ để Chúa ở đó một mình
nhưng
con luôn có mặt, với trọn cả con người,
với
thái độ nhạy bén trong đức tin,
cung
kính tôn thờ
và
phó mình cho Chúa sáng tạo.”
- Lời nguyện của chân phước Elisabeth de Trinité
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 31)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi.