ĐƯỜNG LÊN THIÊN THAI.
Lễ Thăng Thiên C.
Thiên thai gợi lên
bao nhiêu hình ảnh viễn mộng. Một cảnh
tượng tuyệt vời hầu như không bao giờ tìm thấy trong cuộc đời thực tế. Thế nhưng hôm nay Đức Giêsu sẽ hướng tất cả
nhân loại nhìn về cảnh thiên thai, nơi Chúa Cha đang chờ đợi Chúa Con trở về trong vinh quang sau bao thử thách
trần gian.
NIỀM VUI LY BIỆT.
Giây phút cuối cùng
cuộc đời Đức Giêsu đã đến. Khác hẳn
những ngày đi trong bóng đêm thập giá, các môn đệ “lòng đầy hoan hỷ” (Lc 24:52)
khi “Người rời khỏi các ông và được đem lên trời.” (Lc 24:51) “Niềm vui đã được loan báo khi thánh Gioan và
Đức Giêsu sinh ra (Lc 1:14; 2:10) và khi Đức Giêsu chuẩn bị sứ vụ (Lc 8:13;
10:17; 15:7, 10), nhưng nay sẽ hoàn thành vào giây phút cuối cùng.” (NIB
1995:489) Hình ảnh tuyệt vời đó không
cuốn đi tất cả những gì tươi đẹp nhất khỏi trần gian. Trái lại, từ nay niềm hi vọng sẽ tràn ngập
mặt đất vì “Thầy sẽ gởi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa.” (Lc 24:49) Đúng hơn, “anh em sẽ nhận được sức mạnh của
Thánh Thần,” (Cv 1:8) để thực hiện tất cả giấc mộng cứu nhân độ thế.
Giấc mộng đó thành
sự thật khi “anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các
miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1:8) Ơn cứu độ có một chiều kích vượt khỏi tầm
nhìn của các tông đồ, nhưng đồng thời cũng có một độ sâu không ai dò thấu, tức
là lòng người. Chính nơi đây sẽ diễn ra
một chuyển biến lớn lao. Vâng lời Thầy,
các môn đệ “phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ
Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.” (Lc 24:47) Làm cách nào đi sâu vào lòng người như thế
? Thưa, “chính anh em là chứng nhân về
… Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại.” (Lc
24:48, 46) Chỉ có kinh nghiệm sống với
Thầy mới đánh động lòng người sâu thẳm như vậy. Các môn đệ không làm chứng về giáo lý hay
phép lạ. Tất cả lời giảng chỉ xoay
quanh sự kiện khổ nạn và phục sinh mà thôi.
Nhưng sự kiện đó chỉ
được một số ít chứng kiến. Làm sao lời
chứng đó vẫn còn giá trị đối với những người không bao giờ được diễm phúc sống
với Đức Giêsu ? Thực ra “ý nghĩa lời
chứng đã chuyển từ vai trò chứng kiến tận mắt sang vai trò có thể làm chứng về
tầm quan trọng của Đức Giêsu. Thánh
Phaolô có thể làm chứng bằng lời tuyên xưng, mà chẳng phải là chứng nhân tận
mắt những biến cố về sứ vụ Đức Giêsu (Cv 1:22)” (NIB 1995:488) Không thấy nhưng vẫn có thể làm chứng mạnh
mẽ. Chỉ Thánh Linh mới có thể thực hiện
được việc đó nơi các chứng nhân sau này.
Lời chứng ngày càng mạnh mẽ và tạo nên những chứng nhân anh hùng. Nếu không tin, người ta dễ kết án là cuồng
tín hay mê tín. Trái lại, đức tin sẽ
giúp con người nhận ra “niềm hi vọng”, “gia nghiệp vinh quang phong phú” và
“quyền lực vô cùng lớn lao” (Ep 1:18, 19) nơi những lời chứng đó. “Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu
lực,” (Ep 1:19) vì phát xuất tự Thánh Linh.
Thánh Linh đã phục
sinh Đức Giêsu, trả lại danh dự và rửa nhục cho Người. Thăng thiên chính là lúc Người chiến thắng kẻ
thù và tìm về nguồn gốc thần linh của mình.
Tầm vóc thần linh của Người vươn cao đến ngai tòa Thiên Chúa. Từ nay Người sẽ bá chủ muôn loài và đi vào
tương quan sâu xa hơn với cộng đoàn Người đã thiết lập trên trần gian. Quả thế, “Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân
Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội thánh.” (Ep 1:22) Khi “rời khỏi các ông và được đem lên trời”
(Lc 24:51) , Người vẫn không quên “giơ tay chúc lành cho các ông.” (Lc
24:50) Chính nhờ phúc lành ấy, các ông
đã phấn khởi lên đường làm chứng cho Chúa.
Phúc lành như một bảo chứng “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận
thế.” (Mt 28:20) Phúc lành báo trước
“quyền năng từ trời cao ban xuống.” (Lc 24:49)
Người càng lên cao, quyền lực ấy càng lan rộng. Lan rộng tới mức bao trùm cả vũ trụ, vì
quyền lực Người lên tới tột đỉnh khi ngự bên hữu Chúa Cha (x. Ep 1:20).
Nhờ quyền lực ấy,
các tông đồ đã có thể làm cho nhiều con mắt và tâm trí nhìn thấy tính cách “hữu
lý” của mầu nhiệm phục sinh và nghe theo những lời giải thích Kinh thánh mà đi
theo sự hướng dẫn của các môn đệ và “chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 24:53) không
ngừng (x. NIB 1995:489) Nhờ đó, tín hữu
ngày càng đào sâu niềm tin nơi Thiên Chúa.
“Cộng đoàn niềm tin kinh nghiệm Thiên Chúa như Đấng cứu độ, sai đi và
chúc lành.” (NIB 1995:490) Từ kinh
nghiệm sâu xa đó, họ mới có thể chia sẻ với người khác tất cả phúc lành đã đón
nhận từ nơi Thiên Chúa. Cộng đoàn đức
tin không thể sống mà không có phúc lành đó.
Chính nhờ phúc lành cộng đoàn mới có thể tìm được niềm vui lớn lao và
năng lực thi hành những điều Chúa truyền dạy.
Niềm vui là dấu chỉ cộng đoàn đang sống trong phúc lành của Chúa. “Niềm vui là kết quả tự nhiên của phúc lành.”
(NIB 1995:490) Khi đón nhận phúc lành,
“các ông bái lạy Người”, “lòng đầy hoan hỉ,” và “chúc tụng Thiên Chúa.” (Lc
24:52, 53) Đó là những phản ứng tự
nhiên của những tấm lòng biết ơn và suy phục Thiên Chúa.
Vì thế “một linh đạo
và phụng vụ lành mạnh và thấm nhuần kinh thánh đòi phải có một sự quân bình
tương xứng giữa lời giảng về Thiên Chúa như Đấng Cứu chuộc và Cứu thế, kinh
nghiệm về phúc lành của Thiên Chúa, và sự vâng phục lệnh truyền công bố danh
Thiên Chúa cho muôn dân.” (NIB 1995:490)
Lời rao giảng chỉ là tiếng kêu bật lên từ một kinh nghiệm sâu xa và lòng
biết ơn vô hạn về muôn ơn lành Chúa ban nhờ cái chết và sự phục sinh của Con
Chúa. Sống trong phúc lành và quyền lực
Thiên Chúa, các môn đệ không cảm thấy xa
lìa “Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời” (Cv 1:11) về thể lý. Về tinh thần, các ông cảm thấy gắn bó với
Chúa đến nỗi tin rằng “Hội thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của
Người.” (Ep 1:23) Không còn sự liên kết
nào bền chặt hơn ! Đó là một mầu nhiệm
giải thích tất cả sức mạnh Hội thánh trên trần gian và hạnh phúc sâu xa của
người đặt tất cả niềm tin nơi Chúa.
Hạnh phúc đó không
phải là suốt ngày “đăm đăm nhìn lên trời” (Cv 1:10), nhưng dấn thân làm chứng
cho Thầy “cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1:11) Nỗ lực ấy phải trải dài ra trong một không
gian và thời gian hầu như vô tận để kiếm tìm những người biết “sám hối để được
ơn tha tội.” (Lc 24:47) Làm sao cho con
người thành tâm nhìn ra sự thật về chính mình và cảm thấy nhu cầu cần được giải
thoát nhờ ơn cứu độ của Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô ? Chúa thăng thiên để bảo đảm các chứng nhân
sẽ thành công trong nỗ lực đem muôn dân về cùng Thiên Chúa. Thật vậy, khi về
trời “Đức Giêsu mãi mãi hiện diện với Thiên Chúa.” và “hiện diện mãi mãi giữa
trần gian.” (Encyclopedia of
Catholicism: 99) Như thế Người đi ra để
hiện diện một cách sâu xa và mãnh liệt hơn.
Người hiện diện cả hai cõi Thiên Chúa và con người để cho các môn đệ
thấy họ chẳng mất mát gì trong cuộc chia ly.
Đó là lý do tại sao có niềm vui biệt ly trên cõi đời này !
SỨC SỐNG GIÁO HỘI.
Đúng như Đức Giêsu
đã hứa, “sức mạnh của Thánh Thần” (Cv 1:8) đã đẩy các “chứng nhân của Thầy đến
tận cùng trái đất.” (Cv 1:8) Trên quê
hương Việt Nam hôm nay, vẫn có hằng ngàn chứng nhân ngày đêm noi gương cha ông
làm chứng cho Chúa trên miền rừng núi âm u hay các vùng biên giới, trong các
trại cùi hay bệnh viện. Nếu không có
sức mạnh Thánh Thần, làm sao các chứng nhân đó có thể tìm được niềm vui và bình
an giữa bao sóng gió như thế ? Sức sống
Giáo hội thật là một mầu nhiệm. Càng bị
bách hại, Giáo hội càng vươn lên !
Từ Mật Hội Hồng Y
Đoàn vừa qua, ĐHY Tonini nói : “Nghe ĐHY Jakarta nói về tử đạo, về những vụ
thảm sát mà người Công giáo phải trải qua tại các đảo khác nhau của Indonesia;
nghe các giám mục trong thế giới của giới trẻ, tôi phải nói rằng chúng ta đang
đứng trước một Giáo hội tràn đầy sức sống, và đó là điều kỳ diệu biết mình thuộc
về một Giáo hội như vậy.” (VietCatholic 24/5/2001) Sức sống Giáo hội không phải tại việc tổ
chức, nhưng vì “Chúa Kitô đang sống giữa chúng ta, Người phấn chấn chúng ta với
Thần Khí của Người và giúp chúng ta nhìn ra những gì sẽ xẩy đến, ngõ hầu thế hệ
này sẽ nhận ra rằng mình đang sống trong giây phút phi thường nhất của lịch sử
thế giới, bởi vì bây giờ mới thật sự trở về lúc khởi đầu.” (ĐHY Tonini,
VietCatholic 24/5/2001) Sức sống Giáo
hội cũng không hệ tại tiền bạc, mặc dù một tổ chức lớn lao như Giáo hội đòi
phải có tiền mới có thể có những phương tiện truyền giáo và những cơ sở hoạt
động. Bước theo Thày chí thánh, “Giáo
hội trở nên nghèo bởi vì Giáo hội tràn đầy Thiên Chúa. Giáo hội nghèo vì Giáo hội có nhiều thứ vĩ
đại hơn.” (ĐHY Tonini, VietCatholic 24/5/2001)
Những thứ vĩ đại có thể tìm thấy nơi chứng từ của Giáo hội. Theo ĐHY Etchegaray, “Giáo hội cần phải có
tinh thần nghèo khó. Chỉ Giáo hội nghèo
khó mới có thể trở thành Giáo hội truyền giáo, và chỉ có Giáo hội truyền giáo
mới có thể làm cho Giáo hội nghèo khó trở thành cần thiết cho mọi người.”
(CWNews 24/5/2001) Thật là một nghịch
lý. Chứng nhân luôn sống giữa những
giằng co vì nghịch lý của chứng từ giữa một xã hội có quá nhiều mâu thuẫn và
bất ổn.
Đáng lẽ khi xa rời
các Tông đồ, Đức Giêsu đã để lại một khoảng trống lớn lao không gì bù lấp
nổi. Nhưng thực ra Người ra đi để hiện
diện một cách phong phú hơn bằng chính sức mạnh Thánh Linh. Nhờ đó, Giáo hội “cảm thấy nhu cầu cấp bách
không những chỉ nói về Thiên Chúa, nhưng cũng làm cho Người ‘được nhìn’ ra :
qua việc tuyên giảng Lời có sức cứu độ, và việc làm chứng đức tin táo bạo trong
công cuộc truyền giáo được canh tân.” (Mật Hội Hồng Y, VietCatholic
25/5/2001) Cả hai mặt lý thuyết và thực
tiễn đều cần cho chứng từ hôm nay. Chứng từ đó đang trở thành cấp thiết ngay
trong lòng Giáo hội. Hiện tại các Kitô
hữu vẫn chưa thể nào hiệp nhất với nhau.
Lý do không phải chỉ vì lý thuyết, nhưng rất nhiều khi vì những lý do
tâm lý mà thôi. Nghĩa là tình yêu vẫn
chưa mạnh đủ để Thánh Linh có thể tìm ra mối giây liên kết mọi người trong Đức
Kitô Giêsu. Nhiều người vẫn coi quyền
bính Giáo Hoàng là một cản trở lớn cho việc hiệp nhất Kitô hữu. Nhưng theo ĐHY Avery Dulles, “sự rối loạn
trong các giáo phái cho thấy tầm quan trọng của quyền bính trong các vấn đề
giáo lý và kỷ luật.” (CWNews 24/5/2001)
Do đó càng hiệp nhất, anh em Công giáo càng làm chứng mạnh mẽ cho chính
những anh em Kitô của mình.
Đó là chưa kể đến
những chứng từ khó khăn hơn vì những cơn bách hại và ngộ nhận. Giữa những não trạng vô thần và lối sống duy
vật xã hội hôm nay, Giáo hội đã trở thành xa lạ đối với nhiều người. ĐGM Vincent Malone tại Liverpool nhận định :
tình trạng suy giảm số người đi nhà thờ vì ngày càng có nhiều người cảm thấy tự
mãn. Người nói : “Hình như mọi sự đều
nằm trong vòng kiểm soát của chúng ta.
Chúng ta không ý thức về sự lệ thuộc và nhu cầu cần có cái nhìn thần học
xa hơn chính mình.” (CWNews 24/5/2001)
Nói khác, người ta không còn cần Thiên Chúa nữa, trong khi Giáo hội vẫn
cứ nói về Thiên Chúa ! Thiên Chúa trở
thành huyền thoại giữa nền văn minh hiện đại.
Làm sao cho hình ảnh Thiên Chúa sống động trước con mắt nhân loại hôm
nay ? Làm sao cho con người cảm thấy
nhu cầu cần đến Thiên Chúa ? Niềm tin
luôn luôn là một điều kỳ diệu nhưng đã trở thành lạc điệu vì Kitô hữu đã đánh
mất phẩm chất của niềm tin giữa anh em đồng loại.
Để phục hồi phẩm
chất chứng từ Kitô hôm nay, theo ĐHY Jean-Marie Lustiger địa phận Paris, phải
nhấn mạnh đến sứ mệnh rao giảng Tin Mừng duy nhất của Giáo hội trên toàn thế
giới (CWNews 24/5/2001) Chỉ khi nào nhìn Giáo hội như Hiền thê của Đức Kitô,
mới có thể cứu Giáo hội khỏi những thách đố lớn lao của thời đại hôm nay.
Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP