MÙA SAO SÁNG
Chúa Nhật Hiển Linh
Is 60:1-6
Mt 2:1-12
Ep 3:2-3a.5-6
Một thế giới, hai bầu trời.
Một ánh sao, hai cái nhìn. Ánh sao xưa đã thúc giục các chiêm tinh
cất bước lên đường từ những miền xa xôi, hẻo lánh. Cũng ánh sao đó đã đẩy
bạo chúa Hêrôđê vào bóng tối lo sợ, phập phồng. Ánh sao xưa có còn chiếu ánh
sáng vào bóng tối trần gian hôm nay không ?
DÕI THEO ÁNH SAO
Sau bao năm tháng chờ đợi, các chiêm tinh đã thấy rõ niềm hi vọng
trong ánh sao lạ trên bầu trời Bêlem. Ánh sao đã dẫn các vị đến thật gần. Bỗng
nhiên niềm hi vọng tắt ngúm theo ánh sao băng. Tưởng chừng tất cả hi vọng đều
tiêu tan. Sợ chuyến du hành mất mục tiêu, các ông vội vào yết kiến vua Hêrôđê ở
Giêrusalem. Tuy là những nhà hiền triết, các ông cũng đơn sơ hỏi cáo già Hêrôđê
: “Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy vì sao của
Người xuất hiên bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2:2). Có
lẽ quá mải miết trong ngành chuyên môn, các ông đã không hề hay biết về tình
hình chính trị quanh triều đại Hêrôđê. Lúc đó không ai ưa thích nhà vua,
vì ông bị coi là kẻ thoán nghịch ngai vua Đavít. Chung quanh ông rất nhiều kẻ
thù. Biết đâu những chiêm tinh này không phải là dòng dõi Do Thái đến chào
mừng ấu vương có sức qui tụ dân chúng thay đổi cán cân quyền lực Rôma?
Đứng ngồi không yên vì một tin động trời do các chiêm tinh mới tung
ra, vua Hêrôđê vội “triệu tập tất cả các thượng tế, các kinh sư” (Mt 2:4)
để tra cứu Kinh thánh. Cuối cùng mới biết ấu vương sinh ra “tại Bêlem, miền
Giuđe”(c.5), quê hương của Jessê, thân phụ Đavít, đúng như lời ngôn sứ Mikha
(5:1,3) và 2 Samuel (5:2) đã loan báo. Sấm ngôn của Balaam (Ds 24:17) cũng
đá động tới một vị quân vương xuất thân từ dòng họ Giacóp. Kết quả cuộc
tra tầm Thánh kinh đó càng khoét sâu nỗi lo sợ của nhà vua. Dầu thế, ông
ra vẻ bình tĩnh và thành tâm nói với các nhà chiêm tinh : “Xin quí ngài đi dò hỏi
tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến
bái lạy Người” (Mt 2:8).
Nhờ ánh sao, khi tìm thấy Hài Nhi, các nhà chiêm tinh “liền sấp
mình bái lạy Người, rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến”(c.10).
Khác hẳn với cáo già Hêrôđê, các ông đã thể hiện rõ tấm lòng sùng mộ thành thực
đối với vị Vua tương lai. Vàng để tôn nhận quyền vua. Nhũ hương
dành riêng cho Thiên Chúa. Mộc dược đặc biệt dùng trong việc mai táng. Như
thế tất cả những báu vật đó đều mang tính biểu tượng nói lên căn tính và sứ mệnh
của Đức Kitô (x.The Application Study Bible:1991). Cùng một sự kiện, hai thái độ
khác hẳn nhau. Kẻ ở xa hóa ra gần. Người ở gần lại hóa xa. Cả
một truyền thống đạo đức và Kinh thánh cũng chẳng giúp gì cho kẻ gian manh, độc
ác. Chân lý chỉ dành cho những tâm hồn chân thành, dù chẳng có phương tiện
nào khác ngoài thiên nhiên.
Thiên Chúa giáng sinh cứu độ muôn dân. Ánh sao của Người đã
chiếu khắp vùng trời, chứ không riêng cho người Do thái. Mặc dù tràn ngập ánh
sao và có đủ bằng chứng Thánh kinh soi dẫn, họ vẫn không thể đến với Vua trời đất.
Đam mê quyền lực và tiền bạc đã nhận chìm họ trong “bóng tối bao trùm mặt đất”
(Is 60:2). Dù trong cảnh “mây mù phủ lấp chư dân”(c.2), các nhà chiêm tinh vẫn
tìm được “vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa”(c.1). Họ đã nghe tiếng
thúc giục từ bên trong nội tâm : “Đứng lên, bừng sáng lên ! Vì ánh sáng của
ngươi đến rồi”(c.1). Khi đã đạt được tất cả mộng ước, họ đã “loan truyền lời ca
tụng ĐỨC CHÚA”(c.6).
ƠN CỨU ĐỘ PHỔ QUÁT
Như thế không ai còn có quyền tự hào là dân riêng Chúa nữa. Trong Đức
Kitô không còn phân biệt lương giáo. Chính “lương tâm là một mạc khải của Thiên
Chúa”(Danielou:1956), đang điều khiển cuộc sống con người. Nhưng nhất là “trong
Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với
người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa”
(Ep 3:6). Như thế “dân ngoại và Do thái hoàn toàn bình đẳng trong kế hoạch cứu độ
của Thiên Chúa” (Faley:1994).
Nhiều tổ phụ trước Abraham đã là những “vị thánh lương dân” vì họ đã
sống ngay chính trước Thiên Nhan, mặc dù không biết gì về Giao Ước Chúa ký kết
với Abraham và Môsê (x.
Bởi thế muốn mang ơn cứu độ tới muôn dân, người môn đệ Chúa Kitô cũng
phải có một tầm nhìn như Thiên Chúa, Đấng không hề biết đến bất cứ một thứ giới
hạn nào. Hoạt động Thánh Linh bao trùm khắp vũ trụ. Chẳng lẽ trái đất nhỏ
xíu không đủ cho ánh sáng Người lan tỏa khắp nơi sao ? Theo Công đồng
Vatican II, “Giáo hội Công giáo không hề phủ nhận nhũng gì là chân thật và thánh
thiện nơi các tôn giáo. Những phương thức hành động và lối sống, những huấn
giới và giáo thuyết đó cũng thường đem lại ánh sáng của Chân lý, Chân Lý chiếu
soi cho hết mọi người”(NA 2).
Nếu đã công nhận trong các tôn giáo khác cũng có “những gì là chân
thật và thánh thiện", Giáo hội phải tôn trọng các giá trị đó. Biết bao giá
trị đích thực trong các tôn giáo như Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo, Aán giáo
v.v. Tới nay, “Giáo hội giữ một niềm kính phục sâu xa nhất đối với các
truyền thống này và tìm cách đối thoại chân tình với những người theo những tôn
giáo đó”(ĐGH Gioan Phaolô II :1999).
Nếu không được chuẩn bị trong nền văn hóa Việt Nam nhuần nhuyễn đạo
lý Khổng Phật, thử hỏi dân tộc chúng ta có sẵn sàng đón nhận Tin Mừng như thế
không ? Hạt giống Tin Mừng như được gieo vào miền đất màu mỡ, được cầy bừa kỹ càng
từ cả ngàn năm trước. Những đức tính bẩm sinh của dân tộc như “tinh thần bao
dung tôn giáo và sống chung hòa bình” (ĐGH Gioan Phaolô II :1999) rất cần thiết
để đón nhận Tin Mừng vào lòng văn hóa dân tộc. Càng ngày đạo càng thấm sâu vào
sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, xã hội v.v. Chẳng hạn các đóng góp của các văn nghệ
sĩ, các giáo chức, các cán sự y tế, xã hội Công giáo đang lăn xả vào mọi ngành
sinh hoạt để xây dựng quê hương. Thơ nhạc ngày càng thấm nhiễm
tinh thần Tin Mừng. Không biết ai đã bắt đầu gọi ngày đầu tuần là Chúa Nhật. Có
lẽ đó là một Kitô hữu thuộc lòng câu truyện tạo dựng trời đất trong Sáng Thế Ký. Nói
gì chăng nữa, không ai có thể chối cãi vai trò Thiên Chúa giáo trong việc sáng
lập chữ Quốc Ngữ.
Nếu không có tính phổ quát, làm sao Tin
Mừng có thể thấm sâu vào văn hóa dân tộc đến thế ? Tin Mừng đang gieo niềm
hi vọng mãnh liệt vào tâm hồn mọi người đầu thế kỷ 21. Chúng ta đã là người của
thế kỷ 21 với mộng ước mang Chúa Kitô đến cho quê hương. Không ai có thể thay
thế được Người vì Người là vị Cứu Chúa độc nhất. Nơi Người “dân chúng
tại Á Châu gặp được câu trả lời cho tất cả những vấn nạn sâu sắc nhất của họ,
hi vọng của họ được hoàn thành, nhân phẩm của họ được nâng cao và sự ngã lòng của
họ được vượt thắng” (ĐGH Gioan Phaolô II :1999).
Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP