Lễ
Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
(Gio-an 20: 19-23)
Đang
lúc ta sợ hãi hay tuyệt vọng mà có một ai để nương tựa thì quả thực đó là một
phép lạ. Giáo Hội sơ khai là một nhóm
nhỏ gồm các Tông Đồ và một số môn đệ của Chúa Giê-su. Họ đã trải qua những ngày kinh hoàng đầy hãi
sợ và bất an sau cái chết thảm khốc của Chúa.
Cứ theo đà này, chẳng mấy chốc Giáo Hội sẽ tan biến, không để lại vết
tích gì. Tuy nhiên, một phép lạ đã xảy
ra: sự hiện diện của Chúa Thánh Thần
hoàn toàn thay đổi và đảo ngược tình huống. Giáo Hội lớn mạnh luôn mãi qua mọi thời
đại. Phép lạ của Chúa Thánh Thần tiếp
tục diễn ra trong Giáo Hội và thế giới qua lời hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”
(Mt 28:20).
1) “Nơi các môn đệ ở, các
cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái”
Đó
là hình ảnh của Giáo Hội sơ khai, hậu quả của việc người chăn chiên bị đánh và
đàn chiên tan tác (Mt 26:31). Kẻ thù của
Chúa Giê-su – từ “người Do-thái” được dùng trong Tin Mừng Gio-an để chỉ về họ – tuy chưa có hành động gì là bách hại, vậy mà
những Ki-tô hữu đầu tiên cũng sợ bóng sợ vía đến nỗi không dám bước ra ngoài,
thậm chí còn cửa đóng then cài thật kỹ.
Ta không lạ gì khi thấy họ quá hãi sợ như vậy, vì chính mắt họ đã chứng
kiến cái chết thảm khốc của Chúa trên thập giá.
Người ta đã giết được vị thủ lãnh thì kể gì những người đi theo
Ngài. Tuy nhiên đó chỉ là lý do sợ hãi
thuộc bình diện con người. Còn lý do
đích thực và sâu xa hơn là vì họ chưa được lãnh nhận Thánh Thần, sức mạnh của
Thiên Chúa. Cơn dao động hãi sợ làm cho
họ mất bình an, lo lắng không biết khi nào đến lượt mình phải chịu chung số
phận như Chúa Giê-su. Hơn lúc nào hết,
họ cần được bình an. Và Vua bình an đã
tới. Điều đầu tiên Người nói với họ cũng
là lời đáp lại sự mong chờ khẩn thiết nhất trong lúc này: “Chúc anh em được bình an!”
Để
xác nhận bình an này là do sự hiện diện của chính Người, Chúa Ki-tô đã cho các
môn đệ xem tay và cạnh sườn Người. Đó là
những dấu chỉ đặc biệt để họ nhận ra Người chứ không phải ai khác. Nhưng đó cũng là dấu chỉ Chúa Ki-tô đã chiến
thắng tội lỗi và cái chết để đem lại bình an cho nhân loại. Chiến thắng và bình an của Người là nguồn sức
mạnh để môn đệ Chúa và Giáo Hội không phải sợ hãi bất cứ kẻ thù nào. Khi còn ở trần gian, Chúa Giê-su luôn được
đầy tràn sức mạnh của Thánh Thần để ra đi thi hành sứ mệnh Chúa Cha đã
sai. Lúc này đứng trước những môn đệ
đang còn sợ hãi e dè, Chúa Giê-su đã “thổi hơi vào các ông” để ban Thánh Thần
cho các ông. Thánh Thần, nguồn sống đã
làm cho Ngôi Lời hóa thành nhục thể trong lòng Trinh Nữ Ma-ri-a, được Chúa
Giê-su thổi vào các môn đệ, để đến lượt họ sẽ ra đi gây sự sống mới nơi những
ai tin vào Người. Như Chúa Cha đã sai
Chúa Giê-su đến để đem sự sống mới cho nhân loại, thì Chúa Giê-su cũng sai các
môn đệ ra đi để làm cho sự sống ấy được phát triển thêm mãi. Sự sống ấy là sống theo Thần Khí Chúa
Ki-tô. Vậy cánh cửa sợ hãi giờ đây đã
được mở tung. Môn đệ Chúa không còn bị
giam hãm trong ưu phiền lo lắng nữa.
Giáo Hội sơ khai đang chuyển mình lớn mạnh dưới ảnh hưởng của Thánh
Thần.
2) Giáo Hội luôn cần sức
mạnh của Chúa Thánh Thần
Từ
Giê-ru-sa-lem, Giáo Hội đã vươn tới “tận cùng trái đất” và trở thành Giáo Hội
toàn cầu. Chính sức sống của Thánh Thần
là yếu tố căn bản của sự phát triển ấy.
Tuy nhiên Giáo Hội luôn có hai chiều kích: Thiên Chúa và nhân loại. Thiết lập Giáo Hội trên đá tảng tuyên xưng
đức tin của ông Phê-rô và các Tông đồ, Thiên Chúa không hủy bỏ những yếu đuối
luôn tồn tại trong các vị lãnh đạo và mọi phần tử khác. Do đó, những lúc nguy cơ suy thoái của toàn
thể Giáo Hội hoặc những gương xấu của một số người vẫn là những đe dọa cho Giáo
Hội nói chung và cho các phần tử nói riêng.
Khi ấy, những cánh cửa sợ hãi lại được đóng lại và vang lên những lời
cầu xin Chúa Thánh Thần đến để “củng cố các tâm hồn” và “biến đổi bộ mặt trái
đất”.
Ngay
cả những giáo hội địa phương cũng có nhiều trường hợp “cửa đóng kín” vì sợ kẻ
thù. Ta có thể nghĩ đến những giáo hội
nằm trong vòng kiểm soát của những chính phủ Hồi giáo hoặc cộng sản. Người tín hữu nhiều khi không dám tỏ ra những
dấu bề ngoài mình là người Công giáo.
Nhưng ta tin rằng Chúa Thánh Thần vẫn có những đường lối hoạt động trong
những giáo hội đó và những tín hữu đó.
Giáo hội tại Đại-hàn và Nhật-bản là bằng chứng cụ thể. Cả trăm năm vắng bóng linh mục, thế mà giáo
hội vẫn tồn tại và số tín hữu vẫn gia tăng.
Giáo hội tại Pakistan, Ấn-độ, Đông Timor vẫn hùng hồn làm chứng nhân cho
đức tin và bác ái Ki-tô. Sức mạnh Chúa
Thánh Thần quả thực là vô song.
Đối
với từng cá nhân Ki-tô hữu, ta có thể cảm nghiệm được sức mạnh ấy qua những
kinh nghiệm sống đạo hằng ngày. Những
hồng ân của Chúa Thánh Thần là những trang bị cần thiết để ta sống xứng đáng
với danh nghĩa môn đệ Chúa Ki-tô. Hoàn
cảnh cuộc sống hằng ngày luôn thay đổi đòi hỏi ta phải sử dụng những hồng ân đó
cách linh động. Khi phải làm một quyết
định dù lớn hay nhỏ, ta cần đến ơn khôn ngoan.
Khi ta gần như sa ngã trước cám dỗ của ma quỷ, tiền bạc, danh vọng, ta
xin Chúa Thánh Thần nhắc nhở ta phải biết kính sợ Thiên Chúa... Như “các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa”,
ta cũng vui mừng vì biết rằng Chúa Thánh Thần luôn ở kề bên để bênh đỡ ta.
3) “Anh em tha tội cho ai,
thì người ấy được tha”
Như
Thiên Chúa Cha đã sai Chúa Giê-su xuống thế để phục hồi sự sống của Thiên Chúa
cho nhân loại, Chúa Giê-su cũng sai môn đệ Người ra đi để phát triển sự sống ấy
trong thế giới. Người sai họ đi vào một
thế giới đang bị tội lỗi thống trị và làm mất đi sự sống của Thiên Chúa. Vậy để đối phó với quyền lực của tội lỗi và
để thực hiện lời khẳng định của Chúa Giê-su “tôi đến để cho chiên được sống và
sống dồi dào” (Ga 10:10), các môn đệ được Người sai đi để “tha tội” cho mọi
người thống hối và tin vào Người. Nhưng
làm sao họ có thể làm được công việc này nếu không nhận được quyền năng của
Chúa Thánh Thần. Cho nên Chúa Giê-su đã
ban cho họ Thánh Thần trước khi sai họ lên đường. “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Khi
thi hành sứ vụ cứu thế, Chúa Giê-su công bố Triều Đại Thiên Chúa đã đến và đang
được thể hiện nơi Người. Khi về lại với
Thiên Chúa Cha, Người đã sai Thánh Thần đến để tiếp tục hướng dẫn các môn đệ
Người trong sứ mệnh giúp cho “nước Cha trị đến”. Giáo Hội thi hành sứ mệnh truyền giáo cùng
với các tín hữu mọi thời và mọi nơi.
Công tác giải thể tội lỗi và quyền lực của nó là một khía cạnh quan
trọng của việc truyền giáo. Nếu ta muốn
truyền giáo trong lãnh vực ta đang sinh sống, ta chỉ cần làm sao ngăn chặn và
tiêu hủy sự hiện diện của tội lỗi, cổ võ cho những giá trị Tin Mừng được phát
triển. Trước hết, ta truyền giáo cho
chính mình, nghĩa là để cho ta được Ki-tô hóa mỗi ngày một sâu xa hơn. Khi ấy, ta trở nên “hương thơm của Đức
Ki-tô”, khiến cho những người chung quanh cảm nhận được Người và muốn trở về
với Người. Là người giáo dân, ta không có
năng quyền tha tội, nhưng sức mạnh của Chúa Thánh Thần giúp ta chiến đấu với ma
quỷ và tội lỗi, để ta làm cho sự hiện diện và ảnh hưởng của chúng dần dần phải
biến đi khỏi những nơi ta sinh sống.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Bình
an và niềm vui là những hồng ân của Chúa Phục Sinh. Vậy trong mùa Phục Sinh này, tôi có cảm
nghiệm được những hồng ân ấy không? Có
khi nào tôi chia sẻ những hồng ân đó với anh chị em không?
“Anh
em hãy nhận lấy Thánh Thần”, Chúa cũng nói với tôi những lời ấy. Vậy Chúa Thánh Thần đã hoạt động như thế nào
trong tôi? Suy nghĩ một vài trường hợp
cụ thể về ảnh hưởng hoặc giúp đỡ của Người mà tôi đã cảm nghiệm. Tôi đã cộng tác với những hồng ân của Người
như thế nào?
Tôi
đã làm gì để làm bớt đi ảnh hưởng của tội lỗi nơi tôi và nơi những người thân
thuộc?
Cầu nguyện
“Lạy
Chúa Thánh Thần,
xin
ban sức sống cho chúng con.
Xin
cho cuộc đời Ki-tô hữu của chúng con
đừng
rơi vào sự đơn điệu nghèo nàn,
vào
những lối mòn quen thuộc,
nhưng
xin canh tân và tái tạo chúng con mỗi ngày.
Xin
nuôi chúng con bằng những thức ăn mới,
cho
chúng con khám phá ra
những
chiều sâu khôn dò của Đức Ki-tô
và
ý nghĩa thâm thúy của Tin Mừng.
Lạy
Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống,
thế
giới hôm nay luôn bị đe dọa
bởi
bạo lực, khủng bố, chiến tranh;
mạng
sống con người bị coi rẻ.
Xin
cho chúng con biết say mê sự sống,
và
gieo vãi sự sống khắp nơi.
Ước
gì Chúa ban cho nhân loại
một
lễ Hiện Xuống mới
để
con người có thể hiểu nhau hơn
và
đón nhận nhau trong yêu thương.”
(Trích
RABBOUNI, lời
nguyện 38)
Lm. Đaminh Trần Đình
Nhi