SAU CƠN MƯA
TRỜI LẠI SÁNG.
Chúa Nhật 2C Mùa Chay
Còn gì vui hơn khi
thấy giấc mơ thành sự thật. Các môn đệ đã
thấy rõ Đức Giêsu đến thực hiện tất cả mộng ước của dân Do thái về Đấng Messia.
Niềm hi vọng tưởng như bừng lên khi ông Phêrô tuyên xưng : “Thầy là Đấng Kitô của
Thiên Chúa.” (Lc 9:20) Nhưng đám mây đen
đã kéo đến với lời Đức Giêsu tiên báo về cuộc khổ nạn sắp tới (x. Lc 9:22), tiếp
sau biến cố Gioan Tẩy giả vừa mới bị giết (Mt 14:1-12; Mc 6:14-29).
CẢNH BỒNG LAI
Để khai quang đám mây
đen đó, “Đức Giêsu lên núi cầu nguyện đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê.”
(Lc 9:28b) Chỉ có lời cầu nguyện mới giữ
nổi niềm hi vọng. Chính vì thế, Đức Giêsu
đặt hết niềm tin tưởng nơi Chúa Cha, Đấng có thể thỏa mãn mọi niềm hi vọng. “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng
đổi khác.” (Lc 9:29) Cuộc kết hiệp đã đưa
Người xa rời thế giới chung quanh, đi vào cảnh bồng lai Thiên Chúa. Cả cảnh vật chung quanh cũng biến đổi theo cuộc
kết hiệp vĩ đại đó: “Y phục Người trở nên
trắng tinh chói lòa.” (Lc 9:29) Cuộc kết
hiệp thần kỳ đã mở ra tất cả bí mật của thế giới Thiên Chúa. Rõ nhất là tương quan phụ tử : “Đây là Con
Ta, người đã được Ta tuyển chọn.” (Lc 9:35)
Tương quan này sẽ chi phối tất cả cuộc đời và con người của Đức Giêsu. Tương quan cực kỳ sâu đậm, cao đẹp và thắm
thiết. Tất cả những tương quan khác
trong biến cố biến hình đều tùy thuộc vào tương quan đó. Nhờ thế, Đức Giêsu đã có thể làm tất cả mọi
sự để hoàn thành sứ mệnh cứu độ trần gian.
Sứ mệnh đó bắt nguồn từ lời hứa của Thiên Chúa.
Lời hứa đó được nhắc
lại khi “ông Môsê và ông Eâlia hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất
hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem.” (Lc
9:31) Những hình ảnh Cựu Ước tuyệt
vời này đã củng cố niềm tin cho các tông đồ.
Nguyên sự xuất hiện đó đã đưa uy tín của Đức Giêsu lên tột đỉnh niềm tin
của các ông. Huống nữa các ông Môsê và
Eâlia còn nói về một cuộc xuất hành mới tại Giêrusalem. Cuộc xuất hành mới sẽ đem muôn dân vào miền đất
hứa mới. Đức Giêsu rất xứng đáng lãnh đạo
toàn thể nhân loại, chứ không chỉ một dân tộc như Môsê. Người còn có thể phóng tầm nhìn xa hơn một
tiên tri như Eâlia để đem lại niềm hi vọng lớn lao cho lòng người, vì Người sẽ đem tất cả nhân loại vào tương quan sâu xa với
Thiên Chúa. Chỉ trong tương quan này,
“con người mới tìm thấy chính mình cách trọn vẹn và khám phá ra ý nghĩa tối hậu
của đời sống.” (Gioan Phaolô II, VietCatholic 27/2/2001) Nhờ tương quan đó, Người đã có thể hoàn thành
cuộc xuất hành ở Giêrusalem, cao điểm của mọi lời hứa.
Khi các nhân vật Cựu
Ước đã hoàn thành nhiệm vụ, các nhân vật Tân Ước cũng được trình diện với Thiên
Chúa trong công cuộc xuất hành mới. Đây
là những nhân vật quan trọng sẽ góp phần vào công cuộc giải phóng dân Chúa. Do đó các ông cũng cần đi vào cuộc tiếp xúc
sâu xa với Thiên Chúa. Cuộc tiếp xúc với
các nhân vật Cựu Ước đã khiến Phêrô muốn dừng lại để định cư với những túp lều
lý tưởng. Nhưng ông bị đẩy xa hơn. Đám
mây đã đem các ông vào một trời đất mênh mông, vượt trên mọi biên giới trần
gian. Các ông bị choán ngợp trong thế
giới Thiên Chúa. Thật vậy, khi “ông (Phêrô)
còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng
sợ.” (Lc 9:34) Lúc này các ông không còn
nghe thấy tiếng loài người nữa, nhưng trực tiếp nghe Thiên Chúa xác quyết về bản
chất và sứ mệnh của Đức Giêsu. Người thực
sự là Con Thiên Chúa, được tin tưởng và ủy thác việc hoàn thành cuộc xuất hành
mới. Nếu Thiên Chúa còn tin tưởng và
giao cho Người sứ mệnh cao cả như vậy, làm sao con người lại không tin ? Tiếng nói của Chúa Cha là một bảo đảm vững
chắc nhất: “Hãy vâng nghe lơi Người !” (Lc 9:35) ngay cả trong những nghịch lý
của cây khổ giá. Từ nay, Lời Chúa phải
có một giá trị tuyệt đối. Chỉ cần nghe
lời Đức Giêsu là vâng phục Thiên Chúa.
Bởi vậy, “tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu.” (Lc
9:36) Từ nay chẳng cần một cuộc biến
hình nào nữa, vì chỉ một mình Đức Giêsu cũng đủ cho con người thấy tất cả hồng ân
cao cả của Thiên Chúa.
CUỘC XUẤT HÀNH MỚI.
Chỉ khi nào vào
trong đám mây, nghĩa là cũng biến hình như Chúa, các tông đồ mới có thể định hướng
cho cuộc xuất hành mới. Hướng mới chính
là Đức Giêsu Kitô. Trước đây, dù ngay
khi còn trên núi, các ông đã lâm vào tình trạng “không biết mình đang nói gì”
(Lc 9:33) hay “hoảng sợ.” (Lc 9:34) Nhưng
giờ đây, sau khi đã thấy rõ tất cả sự thật về Đức Giêsu, chắc chắn các ông sẽ vững
tâm hơn. Từ nay, các ông tin tưởng tuyệt
đối “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi
thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người.” (Pl
3:21) Cuộc biến hình này sẽ đẩy chúng
ta vào cuộc xuất hành mới.
Cuộc biến hình đó có
thể thực hiện ngay trên mặt đất. Xưa
kia, vì “tin Đức Chúa,” (St 15:6) ông
Abraham được “Đức Chúa lập giao ước.” (St 15:18) Không những thề, ông còn trở thành tổ phụ của
dòng dõi đông như sao trên trời (x. St 15:5). Nhưng trên hết, nhờ lòng tin, ông
được “Đức Chúa kể là người công chính.” (St 15:6) Nói khác, lòng tin đã thực hiện một cuộc biến
hình ngoạn mục trong đời ông.
Cuộc biến hình hôm
nay còn ngoạn mục hơn nhiều. Chính cái
chết và sự phục sinh của Đức Giêsu sẽ biến Kitô hữu thành người công chính, hơn
nữa trở nên bạn hữu Đức Kitô, để có thể đi vào cuộc hiệp thông sâu xa với Thiên
Chúa. Từ cuộc hiệp thông này, chúng ta mới
có thể hòa giải với tha nhân. “Hòa giải
cho dù mình có lỗi đã là khó. Hòa giải
ngay cả khi người ta lỗi đến mình xem ra còn khó khăn hơn vì nhiều người vẫn
cho là điều nhục nhã vô lý.” (Gioan Phaolô II, VietCatholic 25/2/2001) Lòng tự ái thật là trái núi lớn nằm chình
ình giữa tương giao nhân loại. Nhưng nếu
“có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này ‘rời khỏi đây,
qua bên kia !’ nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được.” (Mt
17:20-21) Ai có thể lường hết sức mạnh
đức tin ?!
Đức tin đã khiến
Abraham vượt núi băng rừng đến miền đất hứa.
Đất hứa đó ngày nay không đóng khung trong ranh giới Do thái, vì miêu duệ
Abraham là Giáo hội đã trải rộng khắp mặt đất.
Mặc dù niềm tin đó đã gặp nhiều thử thách, nhưng Giáo hội vẫn sống mạnh
với niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Nhờ đó, Giáo hội đã biến hình và luôn phản ánh
vinh quang Thiên Chúa giữa muôn dân.
Là con cái Giáo hội
và là chính Giáo hội, người Kitô hữu phải làm gì để luôn phản ánh “vinh quang của
Đức Giêsu” (Lc 9:32) giữa những sinh hoạt muôn mặt hôm nay ? Làm sao sống xứng đáng “là niềm vui, là vinh
dự” (Pl 4:4) của Giáo hội giữa một thế
giới đầy bất ổn và buồn chán hôm nay ?
Chỉ có cách bám chặt vào niềm hi vọng duy nhất là Đức Kitô. Sống giữa trần thế, nhưng chúng ta vẫn không
quên “quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu
Kitô từ trời đến cứu chúng ta.” (Pl 3:20)
Lm. Giuse Đỗ Vân Lực,
OP