AI LÀ ANH EM TÔI ?
Chúa Nhật 15C Thường Niên
Giữa một thế giới đầy thù hận hôm nay, làm sao tìm
được khuôn mặt người anh em ? Trong số
những bạn bè, đồng nghiệp và người thân, ai là anh em tôi ? Câu trả lời không có sẵn. Nhưng phải căn cứ vào thực tế và dựa trên
tiêu chuẩn Tin Mừng mới có thể khám phá bộ mặt đích thực của người anh em.
NẠN NHÂN THỜI ĐẠI
Tất cả những điều răn căn bản đã gặp một thách đố
lớn. Vấn đề nằm ở câu thắc mắc của người
thông luật : “Ai là người thân cận của tôi ?” (Lc 10:29) Tất cả bộ mặt thật được phơi bày khi một nạn
nhân thời đại gặp phải những thái độ thờ ơ của những bậc lãnh đạo. Đức Giêsu đã đưa hai gương mẫu của quần chúng
là thày tư tế và Lê vi. Người rất tế nhị
khi không đưa thêm một nhân vật thứ ba là người thông luật vào câu truyện, vì
sợ đụng chạm tới giai cấp của người đang đối thoại. Có lẽ nhờ thế, người thông luật này mới đủ bình
tĩnh thông suốt vấn đề.
Tình trạng người lữ hành bị đánh nhừ tử như thế
chắc chắn phải là một lời mời gọi và là một hình ảnh kinh hoàng đập vào mắt
người bộ hành. Một người có lương tâm
không thể nhắm mắt làm ngơ. Thực tế,
những người có trách nhiệm đào luyện lương tâm của người khác, lại bưng tai bịt
mắt trước tiếng gào thét của lương tâm. Họ
có đủ phương tiện và thời giờ để giúp đỡ người lữ hành đó. Không phải vì kỳ thị, vì đó là một người lữ hành vô danh. Câu truyện không cho biết chắc chắn ông là
người Do thái hay dân ngoại.
Chẳng cần
biết nạn nhân là ai, người Samari đã nhào tới chăm sóc tận tình. Oâng đã “dùng rượu xức vết thương cho người
ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà
săn sóc.” (Lc 10:34) Thật là ngược hẳn
với thái độ của thày tư tế và Lê vi. Người
Samari chỉ biết hành động theo tiếng lương tâm.
Thái độ hoàn toàn nhân bản. Oâng vượt qua mọi thứ ranh giới để đến với
con người. Tiếng lương tâm còn thúc đẩy
ông tiến xa hơn nữa khi sẵn sàng chi phí mọi thứ cần thiết vì mạng sống đồng
loại.
Người Samari nhân hậu là một hình ảnh tuyệt vời
trước mắt người thông luật. Oâng chẳng cần lý thuyết dài dòng. Dụ ngôn đã mạc khải cho ông biết chính “lòng
thương xót” (Lc 10:37) sẽ giúp con người vượt qua mọi biên giới đến với anh em
đồng loại. Không phải tiền bạc hay địa
vị, cũng không phải mớ lý thuyết hay truyền thống, nhưng chỉ có lòng cảm thương
sâu xa mới đem con người xích lại gần nhau.
Lòng thương xót chính là điểm gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Không có lòng thương xót, không có ơn cứu
độ. Thiếu lòng xót thương, con người
biến trái đất thành một nơi không thể sống được và đầy nguy hiểm. Xã hội chỉ dựa trên cơ chế. Gia đình chỉ là một nơi trao đổi theo đúng
tiêu chuẩn khế ước, chứ không dựa trên giao ước hôn nhân nữa.
Nghe đến đây, người thông luật chợt tỉnh ngộ. Mặc dù không đề cập tới giai cấp của ông,
nhưng Đức Giêsu đã mở mắt cho ông và giai cấp của ông thấy rõ cách đối xử với
đồng loại. Giai cấp của ông đã từng đi
khắp nơi để thuyết phục người ta giữ luật Môsê, chất những gánh nặng quá sức
lên vai thiên hạ, nhưng một ngón tay họ cũng không động đến. Luật lệ đã làm mờ mắt khiến họ không nhận ra
thực tế cần dựa trên tình thương nhiều hơn.
Biết bao con người đã chết vì luật lệ.
Bởi vậy, cần nhận định ra nguyên tắc : “Con người sinh ra không phải vì
luật lệ, nhưng luật lệ vì con người.” Có
thế, mới có thể xây dựng một nền văn minh tình thương.
Thay vì hành xử cứng ngắc theo luật lệ, con người
cần sống dựa trên Lời Chúa. Chỉ Lời Chúa
mới đem lại sự giải thoát. Thực vậy,
“Lời Chúa là thần khí và là sự sống; Chúa có những lời đem lại sự sống đời
đời.” (x 6:63c.68c) Lời Chúa vô cùng
mãnh liệt, vì đã tạo thành vạn vật, hòa giải và đem lại bình an cho muôn vật
trên trời dưới đất (x. Cl 1:16.20) Lời
Chúa mạc khải và nối kết con người với Thiên Chúa và với nhau. Lời Chúa là Ngôi Hai Thiên Chúa đã làm người
và ở giữa chúng ta (Ga 1: ). Bởi thế Lời Chúa không xa lạ và vượt quá tầm
trí con người. Trái lại, Lời Chúa rất
gần gũi, ngay trong miệng, trong lòng chúng ta (x.Đnl 30:14). Lời Chúa đã chia sẻ tận cùng thân phận con
người. Bởi vậy, không còn nơi nào Lời
Chúa không đụng chạm tới. Vấn đề chỉ là
con người đã đáp ứng lại Lời Chúa ra sao.
Người Samari đã đáp lại Lời Chúa.
Thày tư tế và Lê vi đã khước
từ. Hậu quả chỉ còn những lời con người
nói với nhau, thiếu hẳn thần khí và sự sống.
Những lời đó không có sức cứu độ mà chỉ chia rẽ và phá hoại con người mà
thôi.
VĂN MINH TÌNH THƯƠNG
Trái lại, Lời Chúa liên kết lòng người và xây dựng
cộng đoàn nhân loại. Giáo hội có sứ mệnh
rao giảng và làm cho Lời Chúa thấm nhuần vào mọi cơ cấu xã hội và lương tâm con
người. Thế nhưng, Đức Hồng Y George, Tổng
giám mục Chicago, nói với Đức Giáo hoàng :
“Từ bên ngoài, sứ mệnh Giáo hội bị đe dọa vì tự do cơ chế đang bị soi
mòn.” (Zenit 01/06/2004) Nhìn chung, tự
do của Giáo hội Hoa kỳ “đang bị đe dọa bởi các phong trào bên trong” và “bởi
chính quyền cũng nhưng các bè nhóm bên ngoài.” (Zenit 01/06/2004) Trong tình cảnh đó, làm sao Lời Chúa có thể
đến với con người ? Làm sao nền văn minh
tình thương có thể bắt đầu xây dựng cho cộng đồng nhân loại ?
Thực tế xã hội Hoa kỳ hôm nay đang tìm cách bó
chân bó tay Giáo hội. Thực vậy, “việc
một số linh mục làm gương mù trong việc lạm dụng tình dục trẻ em và các giám
mục không giám sát đầy đủ đã làm cho nhiều người phản đối Giáo hội Công giáo
một cách công khai hơn. Văn hóa Hoa kỳ
bao giờ cũng thế. Trong bối cảnh đó, tòa
án và cơ quan lập pháp càng sẵn sàng hạn chế tự do hoạt động công khai của Giáo
hội và can thiệp vào việc điều hành nội bộ Giáo hội theo những đường hướng mới
lạ đối với nếp sống Hoa kỳ. Sự tự đo
điều hành nội bộ Giáo hội đang bị suy giảm.
Sứ mệnh Giáo hội đang suy yếu hơn vì không thể tạo ra một cuộc hội thảo
công khai cho dân chúng hiểu Tin mừng và những nhu cầu làm môn đệ Chúa.
Ơû Hoa kỳ họ
thường bàn luận công khai về quyền cá nhân ; không ai có thể nói về công ích nữa. Những vấn đề vượt ngoài phạm vi luật pháp
trong một nền dân chủ hiến định với một chính quyền hạn chế – bản chất đời
sống, hôn nhân, và ngay cả đức tin – bây giờ đều được tòa án quyết định để bảo
vệ quyền lợi cá nhân. Trong nền văn hóa
này, Tin mừng mời gọi người ta nhận lãnh tự do như một tặng phẩm Thiên Chúa và
sống các đòi hỏi của tự do một cách trung tín.
Nhưng tiếng mời gọi đó lại bị coi là áp chế, và khi công khai phát biểu
những đòi hỏi đó, Giáo hội bị coi là kẻ thù của tự do cá nhân và nguyên nhân
gây bạo động trong xã hội. Cuộc đàm
thoại công khai ở Hoa kỳ thường bị lạm dụng và cũng không bao giờ phù hợp với
thực tế quốc gia và thế giới, làm cô lập các mầu nhiệm đức tin. Cuộc đàm thoại đó chủ yếu làm sai lạc niềm
tin Công giáo và các cơ chế khác bị coi là ‘ngoại lai’ đối với đặc tính của cá
nhân chủ nghĩa trần tục. Sứ mệnh Giáo
hội bị đe dọa từ bên trong do sự chia rẽ đang làm tê liệt khả năng hành động
mạnh mẽ và quyết liệt của Giáo hội.” (ĐHY George : Zenit 01/06/2004)
Nếu Giáo hội
không còn tự do hoạt dộng, chắc chắn những giá trị sẽ bị soi mòn và cuộc sống sẽ bị đe dọa trầm
trọng. Xã hội sẽ mất bình an. Trật tự đảo lộn. Đâu là giải pháp đối phó với nguy cơ khủng bố
đang đe dọa phá tan mọi giá trị hôm nay ?
Mọi người đều phải tìm cách sống với nhau như anh em. Phải liên đới mới có thể tạo một sức mạnh
thực sự chống khủng bố. “Liên đới không phải là một sự cảm thông mơ
hồ hay nỗi buồn đau nông cạn trước những bất hạnh của rất nhiều người xa
gần. Trái lại, liên đới là một quyết tâm
vững chắc và kiên trì phó thác cho công ích, nghĩa là, cho thiện ích của tất cả
và từng người, vì tất cả chúng ta thực sự có trách nhiệm đối với tất cả mọi
người.” (Thomas D. Williams : Zenit 15/05/2004)
Không coi nhau như anh em, nhân loại không thể tồn tại và phát triển.
Lm. Giuse Đỗ Vân
Lực, OP