Chúa
Nhật 2 quanh năm, C
(Gio-an
2: 1-11)
Ba lần Thiên Chúa tỏ mình ra (Hiển Linh) qua Đức Giê-su
Ki-tô: lần thứ nhất qua Hài Nhi và cuộc
chiêm bái của các vị đạo sĩ đến từ phương Đông, lần thứ hai khi Chúa Giê-su
lãnh nhận phép rửa của ông Gio-an tại sông Gio-đan và lần thứ ba trong tiệc
cưới Ca-na khi Chúa Giê-su biến nước thành rượu ngon. Mỗi lần như thế đều có ý nghĩa riêng biệt đối
với thời điểm trong cuộc đời Đấng Cứu Độ.
Phép lạ tại Ca-na là dấu lạ đầu tiên khi Chúa Giê-su bắt đầu thi hành sứ
vụ rao giảng Tin Mừng. Thánh Gio-an đã
cẩn thận ghi lại những nhận xét sau đây để kết thúc câu truyện Ca-na: “Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại
Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người” (Ga 2:11).
1) Dấu lạ đầu tiên
Bắt đầu thuật lại câu truyện tiệc cưới Ca-na, thánh Gio-an
nói đến thời gian là “ngày thứ ba”. Vậy
ngày thứ nhất là khi Chúa Giê-su đến gặp ông Gio-an Tẩy giả (Ga 1:29-34) tại bờ
sông Gio-đan và ngày thứ hai là lúc Chúa Giê-su gọi các môn đệ đầu tiên (Ga
1:35-51). Đó là những chuẩn bị cuối cùng
trước khi Người thực sự khởi đầu sứ vụ.
Tin Mừng Gio-an chọn lựa một số phép lạ tiêu biểu mà ngài
gọi là dấu lạ để trình bày một thực thể đằng sau dấu lạ đó. Vậy phép lạ biến nước thành rượu trong tiệc cưới
Ca-na có ý nghĩa gì? Từ chương 2 đến gần
hết chương 6, Tin Mừng Gio-an trình bày những chủ đề thay thế, những thực thể
mới thay thế cho những thực thể cũ, thí dụ quan hệ mới giữa Thiên Chúa và nhân
loại, Đền Thờ mới, sự sống mới, phụng tự mới...
Trong Cựu Ước, mối quan hệ giữa Thiên Chúa và Ít-ra-en
thường được diễn tả dưới hình thức quan hệ hôn nhân (xem Hs 2). Dân Ít-ra-en phải trung thành với Thiên Chúa
như người vợ trung thành với chồng, không được thờ các thần của Dân ngoại. Nhưng thực tế dân Chúa lại bất trung, đi theo
các thần ngoại và học đòi lối sống vô đạo của những người thờ phượng
chúng. Giờ đây trong Tân Ước, Thiên Chúa
muốn đổi mới quan hệ ấy qua Chúa Giê-su, không phải chỉ giữa Người với dân Do-thái,
nhưng với toàn thể nhân loại. Mối quan
hệ cũ đã lạt như nước bây giờ cần phải được biến đổi thành rượu ngon. Thiên Chúa đưa nhân loại vào một cuộc hôn
nhân mới để họ sống và đáp trả tình yêu vô điều kiện Người dành cho họ.
Tuy nhiên, nếu ta hiểu rượu mới như là biểu tượng liên hệ
với việc Đấng Cứu Thế đến (xem Is 25:6; Am 9:14; Ge 2:19), thì ý nghĩa của dấu
lạ tại Ca-na là để khẳng định Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a. Qua Đấng Mê-si-a, Thiên Chúa khởi đầu một
nhiệm cục (economy) mới, nhiệm cục cứu độ trần gian. Dấu lạ đầu tiên này đã tỏ ra quyền năng Thiên
Chúa hoạt động nơi Chúa Giê-su để thực hiện một kế hoạch mới.
2) “Bày tỏ vinh quang của Người”
Mục đích của dấu lạ trong Tin Mừng Gio-an là để ta nhận ra
một điểm nào đó thuộc căn tính của Chúa Giê-su.
Qua ý nghĩa của “rượu”, ta nhận ra Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a đã đến
trần gian. Nhưng thánh sử còn nhắc đến
một chi tiết quan trọng khác để giúp ta nhận biết Chúa Giê-su sẽ làm gì, đó là
“giờ”. Trước hoàn cảnh hết rượu, Mẹ
Ma-ri-a muốn xin Chúa Giê-su can thiệp và được Người trả lời: “Giờ của con chưa đến”. Giờ của Chúa Giê-su là lúc Người chết trên
thập giá (Ga 12:27), được tôn vinh (Ga 12:23) và bỏ thế gian mà về với Chúa Cha
(Ga 13:1). Chính vào “giờ” thế gian
tưởng thắng được Chúa Giê-su chết trên thập giá lại là lúc Người chiến thắng
tội lỗi và cái chết do nó đem lại. Tại
tiệc cưới Ca-na, mặc dù “giờ” của Chúa Giê-su chưa xảy ra, nhưng Người đã tỏ ra
cho ta biết trước về những gì sẽ xảy đến cho Người trên thập giá.
Suy nghĩ về “giờ” của Chúa Giê-su, ta không thể bỏ qua vai
trò của mẹ Người là Đức Mẹ Ma-ri-a. Chỉ
có hai lần trong Tin Mừng Gio-an, Đức Mẹ được nhắc đến, không phải với thánh
danh Ma-ri-a, nhưng với tước hiệu “thân mẫu Đức Giê-su”, lần thứ nhất tại tiệc
cưới Ca-na (Ga 2:1) và lần thứ hai bên cạnh thập giá trên đồi Gôn-gô-tha
(19:25). Vậy Mẹ Ma-ri-a đã hiện diện bên
cạnh Chúa Giê-su vào lúc Người cho ta biết về vinh quang của Người, thì Mẹ
Ma-ri-a lại có thể nào vắng mặt khi Người thực sự được tôn vinh trên thập giá. Vai trò của Mẹ gắn liền với sứ mệnh cứu độ
của Chúa Giê-su. Cũng như tại tiệc cưới
Ca-na, Mẹ đã nhận thấy cảnh bối rối lo lắng của chủ nhà vì hết rượu, thì nhìn
vào “hôn nhân” giữa Thiên Chúa và nhân loại, Mẹ cũng thấy được những trục trặc
cần phải được sửa chữa. “Họ hết rượu
rồi” không chỉ là lời xin Chúa Giê-su can thiệp nhất thời, nhưng là lời chuyển
cầu hằng giây phút Mẹ nói với Con của Mẹ qua mọi thời đại.
Trong giờ vinh quang trên thập giá, Chúa Giê-su lấy máu đào
thanh tẩy tội lỗi của nhân loại. Tại
tiệc cưới, người ta đặt sáu cái chum đá đựng nước để dân chúng cử hành thói tục
thanh tẩy trước khi vào tiệc cưới. Mai
đây trên thập giá, Chúa Giê-su sẽ lấy máu của Người để thay thế nước thanh tẩy
mà biến đổi ta là những người tội lỗi thành những người có lòng tin.
3) “Các môn đệ đã tin vào Người”
Trước một phép lạ vĩ đại như vậy, những người chứng kiến
hẳn có những cảm nghĩ khác nhau. Cô dâu
chú rể và gia đình thì thoải mái vì vừa tránh được cơn bẽ mặt. Người quản tiệc vì không biết Chúa Giê-su đã
làm phép lạ thì cằn nhằn chàng rể không biết sắp đặt. Nhưng hiệu quả đang kể nhất do dấu lạ đem đến
là “các môn đệ đã tin vào Người”. Tuy
nhiên ta có cảm tưởng đây chỉ là khởi đầu của một hành trình. Họ cần phải lớn lên trong niềm tin này. Lời giảng, việc làm và cuộc sống của Chúa
Giê-su sẽ rèn luyện người môn đệ theo gương mẫu của Người. Từ sau biến cố này, thánh Gio-an sẽ cho chúng
ta thấy có hai loại người, những người tin vào Chúa Giê-su là các môn đệ và
những người không tin vào Chúa Giê-su, để rồi ngài thách đố mỗi người chúng ta
sẽ bắt buộc phải chọn lựa làm hạng người nào.
Ngay trong Lời tựa, thánh sử đã khẳng định: “Ngôi Lời đã trở thành người phàm và cư ngụ
giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn
thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy
tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1:14). Đúng
vậy, trong cuộc Hiển Linh tại tiệc cưới Ca-na, các môn đệ đầu tiên của Chúa
Giê-su đã được diễm phúc nhận biết Chúa Giê-su là ai và sẽ làm gì. Nhưng để thực sự nhận biết Người là Con Một
Thiên Chúa, đến để tỏ cho ta ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa, thì họ còn
phải đi theo Chúa, làm môn đệ Người suốt đời, để tới lượt họ sẽ đem ân sủng và
tình yêu Thiên Chúa đến cho những người anh chị em khắp nơi.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Mối quan hệ giữa tôi với Chúa là thứ quan hệ nào? Khi cần thì níu chân Chúa? Hay luôn là một người con hiếu thảo với
Người? Thực sự tin Chúa là Đấng yêu
thương tôi vô điều kiện? Hay chỉ là một
Thiên Chúa quyền phép nhưng xa vời?
Nếu Đức Mẹ nói với Chúa Giê-su về tôi: “Họ hết rượu rồi”, thì tôi phải hiểu thế
nào? Tôi sẽ thưa gì với Đức Mẹ lúc ấy?
Tôi hiểu thế nào là “tin vào Người”? Nếu tôi đang trên hành trình làm môn đệ Chúa
Giê-su thì tôi đã học được những gì nơi Người?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giê-su,
xin cho con biết con,
xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
quên đi chính bản thân,
yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ,
biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa
tất cả những gì xảy đến cho con
và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen.”
- Thánh Augustino
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 5)
Lm. Đaminh Trần Đình
Nhi