TỰ DO HAY LÀ CHẾT.

 

Chúa Nhật 23C Thường Niên.

 

 

Con người khao khát tự do, nhưng cũng cần một hướng để xác định rõ mục tiêu cuộc sống.   Nếu không, cuộc đời sẽ phí phạm và vô nghĩa.   Đức Giêsu đem lại cho nhân loại một phương hướng giải thoát hoàn toàn.  

 

GIẢI THOÁT HOÀN TOÀN.

 

Tự do vẫn là khát vọng muôn đời.  Nhưng cho tới nay, con người vẫn chưa đạt được giấc mơ đó.  Bởi vậy, Đức Giêsu mới đến để mạc khải cho mọi người biết tự do là một hồng ân của Thiên Chúa, chứ không phải của con người. Thực vậy, “chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5:1) bằng cái chết trên thập giá.  Nhờ đó, Người trở thành Môsê mới đưa Dân Chúa vào Đất Hứa.  Người được tôn làm Đức Chúa. “Người đã lên cao dẫn theo một đám tù” (Ep 4:8) tức là nhân loại trong vòng xiềng xích quỉ ma. Nếu không trút bỏ hoàn toàn mạng sống, Người đã không thể nào giải thoát toàn thể nhân loại.  

 

Thầy đã vạch đường.   Muốn làm môn đệ, phải bước theo Thầy.   Đúng là “trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ.” (Mt 10:24)   Đó là lý do tại sao Đức Giêsu quyết liệt đòi hỏi : “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Lc 14:16)   Có đòi hỏi nào khủng khiếp hơn không ?!  Điều kiện theo Người quá khắt khe !   Thực ra, “dứt bỏ” chỉ là giá phải trả cho tự do.   Dứt bỏ những liên hệ gia đình phải chăng làphủ nhận những giá trị lớn lao đó ?   Không phải thế.   Nhưng đòi hỏi như thế, Người muốn mạc khải mình là một giá trị tuyệt đối, vượt trên mọi giá trị trần gian.   Không có một giá trị nào cao cả và thân thiết hơn Người.  Bởi vì tất cả mọi giá trị đều tương đối và mau qua.   Chỉ một mình Người mới toàn hảo, toàn chân, toàn mỹ.   Trong Người có thể tìm thấy mọi sự.   Người mở lối vào Đất Hứa.  

 

Trên đường về Đất Hứa, nhiều mối nguy hiểm chất chồng.   Nguy hiểm lớn nhất là cái tôi của mình.  Thập giá có mặt khắp nơi và đủ mọi chiều kích.   Tin hay không, con người vẫn phải vác thập giá.  Nhưng có nhiều người vác thập giá theo cái tôi của mình.  Không lối thoát.  Cả một cơn hỏa mù dầy đặc.  Trái lại, khi vác thập giá theo Đức Giêsu, người ta có thể có một hướng đi lên tới tận nguồn sống.   Vì chỉ có Người “là con đường, là sự thật và là sự sống.” (Ga 14:6)   Không thể có con đường giải thoát nào khác ngoài Đức Giêsu Kitô.

 

Người chính là một bảo đảm lớn lao cho sự tự do của con người. Đúng hơn, Người là suối nguồn tự do. Thật vậy, “Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống” (Cv 2:33) trên tất cả những ai tin vào Người. Vậy mà, “ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do.” (2 C 3:17)  Bởi thế, nếu đòi hỏi môn đệ “dứt bỏ”, Đức Giêsu chỉ muốn người môn đệ hoàn toàn tự do, thoát khỏi mọi vướng mắc tình cảm và của cải.  Người quả quyết : “Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.”(Lc 14:33)    Còn bám víu vào những giá trị trần thế đó, con người không thể bay bổng theo Người.

 

Bay bổng không có nghĩa là xa rời thực tế.   Trái lại, Đức Giêsu nhấn mạnh : “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Lc 14:27)   Thập giá là những thách đố rất thực tế trong hoàn cảnh và thân phận con người.  Tuy nhiên trong Tin Mừng Luca, Đức Giêsu mới chỉ đòi hỏi hi sinh mạng sống, quyền sở hữu và những thứ tình cảm bên ngoài.   Ngay cả mạng sống cũng chưa phải là điều gì thâm sâu lắm.   Nhưng trong Tin Mừng Mathêu và Marcô, Đức Giêsu quyết liệt hơn : “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình.” (Mt 16:24; Mc 8:34)   Từ bỏ chỉ là mặt trái của tự do.   Càng từ bỏ càng thanh thoát.   Như vậy, khi từ bỏ, con người hoàn toàn tan biến trong Đức Giêsu.   Chính thánh Phaolô đã cảm nghiệm sâu xa về sự thật đó : “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.” (Gl 2:20)    Nghĩa là, khi đã từ bỏ hoàn toàn, thánh nhân cảm thấy mình như bay bổng trong bầu trời tự do là Đức Giêsu.

 

Trong tinh thần đó, thánh nhân đã đề nghị với ông chủ Philêmôn nhận lại người nô lệ Onêsimô như “một người anh em rất thân mến, cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa.” (Plm 16)   Nếu không cùng chia sẻ một niềm tin nơi Đức Kitô, làm sao thánh nhân dám nói như vậy ?   Thánh nhân còn nhấn mạnh : “Nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo, thì xin anh hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi.” (Plm 17)   Thực tế, niềm tin Kitô mạc khải cho chúng ta thấy : “Không còn chuyện phân biệt Do thái hay Hi lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà ; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô.” (Gl 3:28)   Còn phân biệt tức là chưa từ bỏ để hòa mình với mọi người. 

 

Chưa hòa mình với mọi người chưa thể làm môn đệ Đức Kitô.   Vì Đức Kitô đã chết là để hòa giải muôn loài (x. Cl 1:20)   Muốn tiếp nối sứ mạng đó, người môn đệ phải tìm hiểu rõ ý Chúa.   Trong khi sách Khôn Ngoan băn khoăn về thánh ý Thiên Chúa (Kn 9:13), thì Đức Giêsu quả quyết : “Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời.” (Ga 6:40)   Sứ mạng người Con đã được xác định rõ : “Nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do.” (Ga 8:36)   Tại sao được chia sẻ sứ mệnh cao cả như thế người môn đệ lại phải lệ thuộc vào những ranh giới chủng tộc, văn hóa, quốc gia … để không thèm nhìn đến người anh em ?    Đó là một phản chứng tệ hại nhất trong hàng ngũ những môn đệ Chúa Kitô.     Tất cả sứ mệnh lớn lao đều tùy thuộc chứng từ hòa giải này.

 

 

 

GIẢI PHÁP THỰC TẾ.

 

Chứng từ hòa giải đó đang gặp khủng hoảng ngay chính trong cộng đồng dân Chúa.  Khủng hoảng vì con người chỉ biết luẩn quẩn trong cái tôi của mình. Chẳng hạn, theo ĐHY Cormac Murphy-O’Connor, não trạng thời nay cho rằng : “chỉ có cái gì tôi thích mới tốt, chỉ mình tôi mới có những quyền đó và chỉ có một cuộc sống có ý nghĩa hay giá trị đó là cuộc sống tôi muốn chọn cho chính mình.” (CWNews 6/9/2001)   Thật là một bế tắc.   Bế tắc đó bắt nguồn từ “một cuộc khủng hoảng đức tin đang ảnh hưởng tới toàn thể cộng đồng Kitô giáo …”   (CWNews 6/9/2001)   ĐHY nói về Giáo hội Anh quốc trước Hội Nghị Linh Mục Quốc gia tại Leeds như sau : “Giới trẻ ngày nay, và không phải chỉ có bạn trẻ, đang thờ ơ trước những giá trị Kitô giáo và Giáo hội.” (CWNews 6/9/2001)   Nói khác, các bạn trẻ đang mất hướng.      Sau khi đã nhận định như thế, ĐHY dí dỏm : “Chúng ta tự hỏi phải chăng vì chúng ta chưa cố gắng xem chính xác dân đang ngứa ở chỗ nào.   Và họ đang ngứa thật.” (CWNews 6/9/2001)   Muốn đáp ứng nhu cầu cấp thiết của thời đại, theo ĐHY, phải thiết lập các nhóm nhỏ học Thánh Kinh và cầu nguyện.  “Các cộng đồng tí hon này là bí quyết cho tương lai Giáo hội.” (CWNews 6/9/2001)   Vì từ chính những cộng đoàn tế bào đó, dung nhan Đức Kitô sẽ hiện rõ nét hơn và tiếng Chúa sẽ nghe rõ hơn.   Một cộng quá lớn sẽ loãng.   Tiếng Chúa như rơi trong sa mạc.   Lời Chúa chỉ triển nở trong nơi sâu đậm tình người.  Từ đó, những đòi hỏi của Đức Giêsu mới đạt tới cường độ như Chúa muốn.  

 

Đòi hỏi môn đệ phải “từ bỏ hết những gì mình có” và cả “mạng sống mình”, Đức Giêsu muốn họ thi hành sứ mạng giải thoát nhân loại.   Phải chăng đó là một tính toán khôn ngoan ?   Dưới cái nhìn trần thế, hi sinh như vậy chỉ là ngu si và ngông cuồng.   Nhưng “cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người.” (1 C 1:25)   Huống nữa, sự khôn ngoan của Thiên Chúa là chính Đức Giêsu (x. 1 C 24) còn lớn lao hơn gấp mấy ! Chính “nhờ Đức Khôn Ngoan (đó) mà (loài người) được cứu độ” (Kn 9:18) !

 

 


Về Trang Suy Niệm Chủ Nhật Năm C