Chúa Nhật II Phục
Sinh C
Chúng Tôi Đã Thấy Chúa
Gio 20:19-33: 19 Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các
cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các
ông và nói: "Bình an cho anh em! "20 Nói xong, Người cho các ông xem
tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.21 Người lại nói với
các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai
anh em."22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy
nhận lấy Thánh Thần.23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm
giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."
24 Một
người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các
ông khi Đức Giê-su đến.25 Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được
thấy Chúa!" Ông Tô-ma đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người,
nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người,
tôi chẳng có tin."26 Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong
nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến,
đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em."27 Rồi Người bảo ông
Tô-ma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt
vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin."28 Ông Tô-ma thưa
Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! "29 Đức Giê-su bảo:
"Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!
"
30 Đức
Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó
không được ghi chép trong sách này.31 Còn những điều đã được chép ở đây là để
anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà
được sự sống nhờ danh Người.
Bối cảnh của đoạn 20:19-23 là buổi
chiều cùng ngày Phêrô và Gioan chạy ra mồ Chúa (20:1-10). Chúa hiện ra cho các
môn đệ sau khi Maria tin cho họ biết là cô đã thấy Người. Có thể phân đoạn nầy
thành hai dựa trên lời Chúa nói: “Bình an cho các con” (20:19.21). Một hành
động được kèm theo sau mỗi lời nầy: Chúa cho các ông xem tay và cạnh sườn
(20:20a), Người sai các ông đi và ban Thánh Thần (20:21b-22). Theo sau hành
động của Chúa là thái độ của các môn đệ: vui mừng vì thấy Chúa (20:20b) và lãnh
nhận quyền tháo gỡ tội lỗi (20:23).
Chúa Giêsu ban bình an lần thứ nhất
để chứng tỏ Người đã sống lại. Vì sợ người do thái mà các môn đệ đã mất bình
an. Dấu hiệu bên ngoài của điều nầy là họ đóng chặt mọi cánh cửa. Họ lo sợ
người do thái vì người do thái đóng vai trò chủ chốt trong việc bắt và đóng
đinh Người (18:12). Nhiều người khác cũng đã phải sợ quyền lực nầy, nhất là
trong những chuyện liên quan đến Người (7:13; 9:22; 19:38). Hơn nữa, trước
những sự kiện Phêrô và Maria Mađalêna đã thuật lại, họ càng xao xuyến thêm.
Phải tin vào ai? Chúa Giêsu đã báo cho họ trước là đừng để tâm hồn xao động, cả
khi bị bắt bớ vì Người đã ban cho họ sự bình an của Người (14:27; 16:33). Lần
nầy rất ý nghĩa, việc ban bình an của Người kèm theo việc cho các môn đệ thấy
vết thương ở tay và cạnh sườn. Đó là những dấu vết của cuộc thương khó mà Người
đã chịu bởi tay người do thái (19:34). Nhưng Người đã sống lại. Người đã chiến
thắng sự chết mà được xem như là biện pháp cuối cùng và hiệu quả nhất người do
thái đã nghĩ đến để tiêu diệt Người. Do đó, không còn lý do gì để phải sợ hãi
nữa những người ấy chỉ giết được thân xác. Ngược lại, họ vui mừng vì đã thấy và
gặp lại Người. Nỗi vui mừng ấy từ nay không ai lấy mất được (16:22; 20:20).
Chúa Giêsu ban bình an lần thứ hai
để sai các môn đệ đi và mở ra giai đoạn mới. Để thực hiện, Chúa Giêsu đã làm
cho các môn đệ những điều mà Chúa Cha đã làm cho Người: ban sứ mạng và Thánh
Thần. Người sai họ đi như Chúa Cha đã sai Người vào trần gian (17:18). Họ lãnh
nhận cùng một sứ mạng như Người đã lãnh nhận. Người ban cho họ Thánh Thần mà
Người đã lãnh nhận trong ngày khởi đầu sứ vụ (1:33). Bây giờ Người đã được tôn
vinh, nên Người có thể ban Thánh Thần ấy lại cho các môn đệ của Người (x.
7:39). Hơn nữa, trong lời ban bình an (cc. 19.21) Người bảo đảm cho họ cả sự hiện diện luôn mãi của Người.
Với quyền tháo gỡ tội lỗi được ban
cho các môn đệ (c. 23), Chúa Giêsu muốn họ chuẩn bị tâm hồn con người để đón
nhận tin mừng về sự phục sinh của Người; việc mà Người đã làm khi khởi đầu việc
rao giảng (x. Mk 1:14-15). Tuy nhiên, lúc nầy vì Người đã hoàn tất công trình
cứu chuộc và đã biểu lộ cách rõ ràng Người là Con Thiên Chúa đã sống lại trong
vinh quang phục sinh, nên lời mời gọi tin vào tin mừng (x. Mk 1:15) sẽ đồng
nghĩa với một chọn lựa: tin vào Chúa Kitô sống lại thì được cứu độ, không tin
vào Người thì bị kết án (x. 3:18). Đó là lý do tại sao Người ban cho các môn đệ
quyền tháo gỡ tội lỗi dựa trên phán đoán ai tin hay không tin vào Chúa Giêsu
sống lại.
Bối cảnh của phần hai
(20:24-29): không gian vẫn là tại căn phòng nơi các tông đồ đang tụ họp
(20:19); thời gian là “tám ngày sau” (20:26). Bố cục của đoạn có thể phân chia
như sau: - Tôma, người vắng mặt trong lần hiện ra trước (20:24); - Lời chứng của
các tông đồ và Tôma không tin (20:25); - Đối thoại của Chúa Giêsu và Tôma (20:26-28);
- Kết luận của Chúa Giêsu (20:29).
Tôma không có mặt với các
tông đồ khác trong lần Chúa Giêsu hiện ra trước (20:19-23). Lời chứng của các tông
đồ: “Chúng tôi đã thấy Chúa” (20:25a) giống như lời của Maria Mađala (20:18). Tương
quan giữa “thấy” và “tin” rất được nhấn mạnh (1:50; 3:36; 4:48; 19:35), và đặc
biệt trong trình thuật về sự sống lại. Gioan “đã thấy và đã tin” (20:8), Maria
Mađala đã thấy Chúa (20:18), các tông đồ cũng đã thấy (20:20.25). Phần Tôma, thấy
để có thể tin không đủ; ông muốn có thêm kinh nghiệm “đụng chạm” nữa. Ông đặt điều
kiện “nếu tôi không… thì tôi không”, nghĩa là nếu Chúa không thực hiện những điều
kiện của ông, thì không vẫn từ chối tin vào lời chứng của các tông đồ khác (x.
20: 25b). Maria Mađala muốn giữ thân xác Chúa Giêsu lại (x. 20:17), còn Tôma muốn
đụng chạm đến các vết thương ở tay, chân và cạnh sườn Người. Các vết thương nơi
tay và chân do bị đóng đinh (19:18), và nhất là vết thương ở cạnh sườn do một
người lính đâm thủng (19:34) là những yếu tố rất cần thiết giúp cho các tông đồ
tin. Chúng giúp cho các tông đồ tin là Đấng Sống Lại cũng chính là Đấng Đã Bị Đóng
Đinh, và đã có một chứng nhân giữa họ thấy Người bị đâm ở cạnh sườn (x. 19:34).
Bởi đó, Người đã cho các tông đồ thấy “tay và cạnh sườn” (20:20). Họ thấy và họ
đã tin. Còn Tôma, không chỉ thấy, mà còn muốn đụng tay vào những vết thương ấy.
Vậy, ông đặt cho Chúa Giêsu một điều kiện phải thực hiện để ông có thể tin.
Chúa Giêsu và Tôma
(20:26-28). Tám ngày sau, Chúa Giêsu lại hiện ra giữa các tông đồ lúc cửa đang đóng,
và lời chào như lần trước: “Bình an cho các con” (20:19.21.26). Điều nầy cho thấy
sự liên hệ với đoạn trước (20:19-23). Hơn nữa, chỉ dẫn về thời gian “sau tám ngày”
đối chiếu với “ngày thứ nhất” (20:1) “cùng ngày hôm ấy” (20:19) cho thấy các lần
hiện ra Chúa Giêsu cố ý thực hiện trong ngày của Chúa. Lần nầy, có Tôma hiện diện,
và Chúa Giêsu có cơ hội thực hiện những điều kiện của ông. Người ra những mệnh
lệnh cho ông: “hãy xỏ ngón tay vào” “hãy đặt tay vào” các vết thương của Người
(20:27); đồng thời, “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (20:27c). Người cho ông
thực hiện kinh nghiệm cách thể lý điều kiện ông đã đặt ra. Rồi Người mời gọi ông
vượt qua bên kia lòng tin có điều kiện ấy, để chỉ tin vào Người. Điều kiện cần
thấy mới tin, hoặc có thêm kinh nghiệm đụng chạm, không phải là điều Chúa Giêsu
ưa chuộng (x. 3:36). Vì có nhiều Người thấy mà vẫn không tin (x. 6:30.36). Tôma
đã chấp nhận thách đố của Người, và đã tuyên xưng: “Lạy Chúa của tôi, lạy Thiên
Chúa của tôi” (20:28). Martha cũng tuyên xưng tương tự như thế vào Chúa Giêsu
trong biến cố Lazarô được làm cho sống lại (x. 11:27), sau khi Chúa Giêsu tự xưng
chính Người là sự sống lại và sự sống (11:25). Như thế, lời tuyên xưng nầy cho
thấy Tôma tin là Chúa Giêsu đã sống lại; đồng thời qua đó, ông bước vào niềm
tin của các tông đồ khác và của Maria Mađala vào Chúa Sống Lại khi họ nói là họ
đã thấy “Chúa” (x. 20:8.18.20.25.28; 21:7.12). Vậy, từ niềm tin có điều kiện, Tôma
đã nhận biết Đấng Sống Lại và hết cứng lòng tin.
Kết luận: Phúc cho những
ai không thấy mà tin (20:29). Tin mừng về Đấng Sống Lại phải được loan báo theo
lệnh truyền. Maria Mađala nhận lệnh đi báo lại cho các tông đồ (20:17); các tông đồ loan báo cho Tôma
(20:25). Và dĩ nhiên, tin mừng nầy còn được loan truyền cho các thế hệ tiếp nối
theo sau. Đấng Sống Lại sẽ ra đi. Không thể tất cả có thể làm kinh nghiệm như Tôma
và các tông đồ. Bởi đó, mối phúc “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (20:29)
cho thấy lời loan báo “Chúng tôi đã thấy Chúa” (20:18.25) của những chứng nhân đầu
tiên là quan trọng hơn cả và đầy đủ rồi để có thể tin là Chúa Giêsu đã sống lại
(20:18.25; 1Gio 1:1) và không cần mỗi người phải có một kinh nghiệm thấy Người
và đụng chạm Người cách thể lý.
Chúa Giêsu sống lại ban sự bình an
không sợ hãi sự chết cho những ai tin vào Người. Sự bình an ấy ban cho họ sức
mạnh để loan báo tin mừng Người đã phục sinh.
Chúa Giêsu Sống Lại không
còn ở trong điều kiện xác phàm như lúc Người đến trần gian, nên việc thấy Người
bằng mắt xác phàm cũng không cần thiết nữa. Chỉ tin vào lời chứng của các tông đồ
về Chúa Sống Lại là đủ.
Lm.
Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến