Lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu Năm C
Bàn tiệc huynh đệ
(Khởi nguyên: 14, 18-20; Thư 1 Côrintô 11, 23-26; Tin Mừng Luca
9, 11b-17)
Phúc Âm: Lc 9, 11b-17
"Tất cả đều ăn
no nê".
Khi ấy, Chúa Giêsu
nói với dân chúng về nước Thiên Chúa và chữa lành những kẻ cần được cứu chữa.
Vậy khi đã xế chiều, nhóm mười hai đến thưa Người rằng: "Xin Thầy giải tán
dân chúng, để họ đi vào trong các làng mạc và trại quanh đây mà trú ngụ và kiếm
thức ăn, vì chúng ta đang ở nơi hoang địa". Nhưng Người nói với các ông:
"Các con hãy cho họ ăn đi". Các ông trả lời: "Chúng con chỉ có
năm chiếc bánh và hai con cá, trừ phi chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám
đông này". Số đàn ông độ năm ngàn. Người nói với các môn đệ rằng:
"Hãy cho họ ngồi xuống từng nhóm độ năm mươi người". Các ông đã làm
như thế, và bảo tất cả ngồi xuống. Chúa Giêsu cầm lấy năm chiếc bánh và hai con
cá, nhìn lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và phân phát cho các môn đệ để các
ông dọn ra cho dân chúng. Tất cả đều ăn no nê, và người ta thu lượm được mười
hai thúng miếng vụn còn dư lại.
Suy Niệm:
Lễ nào không phải là
lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu hay sao, mà phụng vụ còn phải đặt ra ngày lễ hôm
nay? Ðó là vấn đề được tranh luận sôi nổi ở cuối thế kỷ XIII và đầu thế kỷ XIV
trước khi lễ kính trọng thể Mình Máu Thánh Chúa Giêsu được phổ biến ở mọi nơi.
Trước đó, tức là
trong hơn 10 thế kỷ đầu của Kitô giáo, Hội Thánh vẫn cử hành thánh lễ tạ ơn,
nhưng không nghĩ tới việc đặt ra một ngày đặc biệt để tôn thờ Chúa Giêsu ngự
nơi Thánh Thể. Hội Thánh coi Thánh Thể là lương thực hằng ngày nên không để ý
quan sát, mà chỉ quan tâm lãnh nhận. Sang đến cuối thế kỷ 12, vì có người đặt
vấn đề về sự hiện diện của Chúa Giêsu nơi Thánh Thể, Hội Thánh mới thấy việc
chiêm ngưỡng và suy nghĩ về bí tích này là cần thiết. Lễ Mình Máu Thánh Chúa
Giêsu được đặt ra để nói lên niềm tin vào việc Chúa ngự nơi Thánh Thể. Và niềm
tin này đòi hỏi việc tôn thờ xứng đáng, biểu hiện trong thái độ chầu Mình
Thánh, và kiệu Mình Thánh. Ðó còn là những việc mà chúng ta muốn làm hôm nay
cùng với việc dự lễ và rước lễ để nói lên lòng tin yêu của chúng ta đối với bí
tích Thánh Thể.
Nhưng cho dù chính
đáng, những cách thức biểu lộ niềm tin này vẫn không cần thiết bằng việc kết
hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể mà Hội Thánh vẫn quan tâm ngay từ đầu. Và những
bài đọc Kinh Thánh hôm nay muốn giúp chúng ta làm công việc này.
1. Bánh Rượu Trong
Tay Melkisedek
Bài sách Khởi nguyên
đưa chúng ta về một thời đại xa xưa. Thời đại của tổ phụ Abraham cách đây gần
40 thế kỷ. Hôm ấy vị tổ phụ đi giao chiến về để cứu anh em mình là gia đình ông
Lót. Abraham đã toàn thắng. Trên đường về có vua ở Sôđôm ra đón để chúc mừng và
tỏ tình thân thiện. Lại có vua ở Salem là Melkisedek cũng ra gặp gỡ. Tác giả sách
Khởi nguyên chỉ dùng có ba câu để thuật lại câu chuyện. Nhưng đây là ba câu đã
có ảnh hưởng lớn trong truyền thống của Kinh Thánh. Hết mọi từ ngữ đều có ý
nghĩa. Melkisedek nếu chiết tự thì có nghĩa là Vua Công Chính, và Salem không
những là tên được đồng hóa với Giêrusalem mà còn gợi lên tư tưởng hòa bình.
Chắc chắn câu chuyện kể ở đây đã thành danh tiếng vì nó đã xảy ra tại
Giêrusalem ở ngay thời của tổ phụ dân Chúa. Người ta truyền tụng nó để đề cao
Giêrusalem và để nói lên rằng thủ đô của Dân Chúa đã được vị tổ phụ của dân tộc
đặt chân đến.
Hơn nữa, ở đây, nơi
đô thị "Hòa Bình" này, vị tổ phụ đã gặp một nhân vật "mầu
nhiệm". Ông không phải chỉ là vua mà còn mang danh hiệu là "Ông vua
công chính".
Về sau người ta đã cố
gắng tìm hiểu lai lịch của ông, nhưng mọi nỗ lực chỉ đi đến một kết luận: ông
như không cha, không mẹ; đột nhiên xuất hiện rồi lại biến mất tăm hơi. Ông là
con người mầu nhiệm, y như thái độ của ông trong câu chuyện này.
Ông ra đón Abraham,
nhưng khác hẳn với vua Sôđôm đã ra gặp vị tổ phụ. Vì mặc dù là vua Salem, ông
đã không nghênh đón "Người đại thắng khải hoàn" theo cung cách triều
đình, nhưng với tác phong tư tế; Vì theo tục lệ đông phương thời ấy, hoàng đế
cũng là tư tế. Ông mang bánh và rượu ra. Ông làm một cử chỉ tôn giáo. Ông chúc lành
cho Abraham và ông ca tụng Chúa Tối Cao dựng nên trời đất để chúc phúc. Ông làm
cho Abraham như phải cúi đầu và dâng cho ông thập phân về hết mọi sự.
Có lẽ hàng tư tế Do
Thái đã thích câu chuyện này và thích lợi dụng tối đa. Họ nhắc đi nhắc lại để
cho con cái Israel phải quý việc nộp thập phân huê lợi cho hàng tư tế, vì chính
tổ phụ đã làm như thế!
Nhưng phần lớn truyền
thống Cựu Ước lại chú ý đến vai trò tư tế của Melkisedek và vị Chúa tối cao mà
ông tôn thờ. Ngài là Ðấng dựng nên trời đất nên Ngài cũng là chính Giavê, Chúa
của dân Israel. Ngài đã phó địch thù trong tay Abraham, và như vậy Ngài là Chúa
toàn năng của tất cả mọi người, cả khi người ta không biết Ngài. Tất cả những
tư cách này khiến con cái Israel - cũng như tổ phụ Abraham thấy ngay Ngài cũng
là Thiên Chúa của họ, và Giêrusalem thật là nơi thánh địa, vì từ đầu vẫn là đô
thị của Thiên Chúa.
Ðiều này cũng nói lên
quan niệm của Cựu Ước không coi tôn giáo tự nhiên, tôn thờ đấng dựng nên trời
đất, như tôn giáo của các dân ngoại. Ngoại giáo là tà giáo, chứ tôn giáo tự
nhiên thờ Ðấng Tối Cao là chính giáo ở thời chưa được mạc khải, nên vẫn đáng
trọng.
Tuy nhiên Cựu Ước
chưa chú trọng đến bánh rượu ở trên tay Melkisedek như phụng vụ muốn cho chúng
ta phải làm trong ngày hôm nay. Những của lễ kia, nằm trong tay vị tư tế mầu
nhiệm của tôn giáo tôn thờ Ðấng Tối Cao là hình ảnh báo trước bánh rượu sẽ được
đôi tay của vị tư tế đạo mới dâng lên sau này. Thiên Chúa, Ðấng dựng nên trời
đất, ngay từ buổi đầu lịch sử dân Chúa, đã tỏ ra muốn dùng bánh rượu làm lễ
vật. Những của lễ này nằm trên tay Melkisedek nói lên lòng tôn thờ tự nhiên
chuẩn bị cho việc phụng thờ hoàn chỉnh sau này.
Do đó, ngày nay trong
Thánh Lễ, chúng ta dâng lên Chúa bánh rượu "là hoa màu ruộng đất và lao
công vất vả của con người" để trở nên Mình và Máu Chúa Kitô. Thánh lễ của
chúng ta kiện toàn lễ dâng của Melkisedek. Bánh rượu trên tay vị tư tế này đang
chờ được vị Thượng tế đạo mới thánh hóa. Và như vậy, Thánh lễ đã bắt nguồn từ
xa xưa và kiện toàn mọi lễ dâng từ thời Abel qua Melkisedek và cho tới nay.
Chúng ta không dâng lễ ở ngoài lịch sử, nhưng dâng tất cả lịch sử làm của lễ
khi nhận lấy bánh rượu và được dâng từ thời Melkisedek để trở nên bánh nuôi
sống và của uống thiêng liêng cho chúng ta.
Và Melkisedek là hình
ảnh báo trước về Chúa Kitô và các tư tế của Người, trong đó có cả chúng ta. Do
đó, mỗi khi dâng lễ, chúng ta lại nhớ đến vị tư tế xa xưa này. Mỗi khi cầm bánh
rượu, chúng ta như nắm lấy tất cả thiên nhiên và lịch sử. Chúng ta muốn tất cả
trở thành lương thực nuôi dưỡng chúng ta sau khi đãbiến đổi nên Mình và Máu
Chúa Giêsu. Chính Người với lễ hy sinh của Người nối kết và hoàn chỉnh mọi lễ
dâng của các thế hệ xa xưa cũng như của những thế hệ sau này. Chúng ta hãy nhìn
Người trong hành vi tế lễ.
2. Bánh Rượu Trong
Tay Chúa Giêsu
Chắc chắn, khi còn ở
trần gian và sống với các môn đệ, Ðức Giêsu đã nhiều lần cầm lấy bánh và rượu.
Nhưng có thể nói, môn đệ đã quên hết mọi lần khác để chỉ nhớ một lần, lần xảy
ra trong bữa ăn tối sau hết trước khi Người ra đi chịu chết.
Lần ấy Người đã cầm
lấy bánh rượu một cách khác thường, không thể quên được, đến nỗi mỗi lần khi
nhắc lại đã có lần nào Người cầm bánh rượu, là môn đệ lại nhớ đến lần này và
lấy cử chỉ, thái độ của Người trong lần này để mô tả mọi lần khác. Chính vì vậy
mà hôm nay chúng ta xem bài thư Phaolô trước nói đến lần Ðức Giêsu cầm lấy bánh
rượu ở bàn tiệc ly. Rồi chúng ta mới nói đến bài Tin Mừng kể việc Ðức Giêsu cầm
lấy bánh để chia trong một dịp khác.
Việc này xảy ra trước
bữa tiệc ly, nhưng như đã nói, môn đệ Chúa kể lại việc này theo "khuôn
mẫu" của việc Người cầm lấy bánh rượu trong bữa ăn cuối cùng. Thành ra,
chính bài thư Phaolô sẽ giúp chúng ta hiểu bài Tin Mừng, mặc dù câu chuyện kể ở
đây đã xảy ra trước, nhưng lại đã được viết lại sau và theo kinh nghiệm bàn
tiệc ly.
Thánh Phaolô viết
đoạn thư này vào khoảng năm 57, căn cứ vào truyền thống chân thật. Ðây là điều
Ngài đã nhận được nơi Chúa, tức là bắt nguồn từ Chúa để truyền lại cho tín hữu.
Do đó, đây là sự kiện chân thật. Chỉ có uy tín chân thật này mới có thể làm cho
giáo dân Côrintô suy nghĩ và sửa mình.
Họ vẫn hội họp nhau
để cử hành "bữa tiệc của Chúa". Nhưng Phaolô thấy chẳng có vẻ gì là
"của Chúa" cả. Gần giống như các bữa tiệc tôn giáo của dân ngoại rồi.
Bởi vì ai đến ăn, cũng mang phần riêng của nhà mình tới. Người có nhiều thì
ngồi chung với nhau ăn nhậu một cách tham lam và khinh bỉ những người khác.
Những người nghèo hơn, mang theo phần ít, ngồi ăn một cách buồn bã. Người ta
chỉ mượn "nhà của Chúa" để mang đồ ăn "nhà mình" tới. Người
ta lợi dụng buổi lễ tôn giáo để ăn uống chứ không cử hành "bữa ăn
tối" của Chúa nữa.
Thế nên để sửa dạy
giáo dân của Ngài, Phaolô phải nhắc lại thế nào là "Bữa ăn" đích thực
của Chúa. Ngài làm cho họ nhớ lại giáo huấn chân truyền. Và sự thật ấy thế này:
trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu đã cầm lấy Bánh và tạ ơn xong, Ngài đã bẻ ra và
nói: "Này là Mình Ta vì các ngươi...". Cũng vậy về Chén, sau khi dùng
bữa tối xong, Ngài nói: "Chén này là giao ước mới trong Máu Ta, các ngươi
hãy làm sự này mỗi khi uống mà nhớ đến Ta".
Chỉ trong mấy câu vắn
tắt, Phaolô đã thuật lại tất cả sự thật. Ngài nói rõ việc ấy xảy ra trong đêm
Ðức Giêsu bị nộp. Thế nên việc ban bánh rượu này cho môn đệ gắn liền với cuộc
khổ nạn của Người. Và bữa ăn của Chúa, luôn luôn mang sắc thái của buổi tiệc
ly.
Ðó cũng là bữa ăn
Vượt qua của người Do Thái, nhắc lại việc Chúa cứu dân ra khỏi Ai Cập và tin
tưởng cầu xin cùng chờ đợi Chúa còn tiếp tục giải cứu nữa trong tương lai cho
đến khi có giao ước mới và vĩnh cửu như lời các ngôn sứ của Chúa từng loan báo.
Và trong bữa ăn này, việc giết một con chiên để lấy máu bôi lên cửa là việc cốt
yếu. Thế mà khi chia bánh rượu cho môn đệ, Ðức Giêsu lại tuyên bố: Ðây là Mình
Ngài bị nộp và đây là chén Máu Ngài sẽ đổ ra. Người còn gọi đó là chén giao ước
mới. Do đó rõ ràng Người đã tự coi, tự biến mình nên Chiên Vượt qua để mang đến
ơn cứu độ mà các ngôn sứ từng loan báo.
Các môn đệ không lầm.
Họ thấy rõ với các cử chỉ này Chúa Giêsu đã khai trương thời đại mới. Người đã
thay thế bữa ăn Vượt qua của người Do Thái bằng bữa ăn của Người hôm nay. Có
thể họ chưa hiểu rõ những lời về Mình và Máu; vì phải đợi đến ngày hôm sau khi
thấy Mình Người bị nộp và Máu Người chảy ra họ mới hiểu hết ý nghĩa. Nhưng họ
đã cảm thấy chắc chắn Chúa Giêsu muốn dùng các cử chỉ của Người hôm nay để ký
kết giao ước mới, chấm dứt đạo cũ và nghi lễ cũ. Từ nay bước sang thời đại cứu
độ và nếp sống mới. Và nghi lễ mới cũng đã được thiết lập, vì Ðức Giêsu đã bảo:
phải làm sự này mà nhớ đến Người. Tức là mỗi khi nhớ đến Ngài, nhớ đến để hiệp
thông với Ngài trong hành vi cứu độ để được giao ước mới, phải làm việc Ngài
vừa làm, tức là phải cầm lấy Bánh Rượu mà làm như Ngài.
Thế mà giáo dân
Côrintô đâu có làm như thế! Thánh Phaolô bảo họ: "mỗi lần anh em ăn bánh
và uống chén này, anh em loan báo sự chết của Chúa... anh em làm bất xứng, thì
sẽ mắc tội đối với Mình và Máu Chúa".
Những lời này tuyên
bố rõ ràng có sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể. Bánh rượu đã trở nên Mình
Máu Thánh Chúa. Nếu ngày lễ hôm nay có ý nói lên niềm tin Chúa hiện diện nơi
Bánh Thánh, Rượu Thánh, thì những lời Phaolô vừa nói đã đạt yêu cầu. Nhưng mục
đích của Phaolô không phải chỉ muốn nói đến sự hiện diện của Chúa nơi Thánh
Thể; Ngài muốn nói rằng người ta phải hiệp thông với Chúa, có tâm tình của Chúa
để cử hành tiệc Bánh Rượu.
Ðây là bữa ăn Vượt
qua. Người ta phải ôn lại và ôm lấy tất cả lịch sử từ trước cho đến nay với tâm
tình tạ ơn nhưng cũng với ý thức xót xa vì bao nhiêu khiếm khuyết để ước mong
được cứu độ nhờ giao ước mới. Người ta sẽ cầm lấy bánh và chén rượu. Và lúc ấy
theo lời Chúa Giêsu đã nói, người ta nhớ đến Người, nhớ đến cuộc tử nạn hồng
phúc của Người. Người ta tham dự, thông phần lễ hy sinh Người đã dâng để được
vượt qua, sống lại, hướng về ngày vinh quang Người trở lại.
Bánh rượu trên tay
Chúa, vì thế, không phải chỉ là bánh rượu trên tay Melkisedek nữa. Nếu trên tay
vị tư tế mầu nhiệm này, bánh rượu tượng trưng cho thiên nhiên và đạo tự nhiên,
thì trên tay Chúa Giêsu bánh rượu mang thêm ý nghĩa lịch sử và giao ước cũ. Ðó không
phải chỉ là hoa màu ruộng đất nhưng còn là lao công vất vả của con người. Thiên
nhiên và con người đều phải trở nên tạo vật mới nhờ mầu nhiệm Chúa Giêsu nơi Bí
Tích Bánh Rượu mà chúng ta còn tiếp tục dâng trên bàn thờ.
3. Bánh Rượu Trên Tay
Chúng Ta
Dĩ nhiên khi dâng
bánh rượu, chúng ta phải có những tâm tình như trên vừa nói; vì lời thánh
Phaolô đã nói với tín hữu Côrintô cũng là để cho chúng ta. Nhưng mục đích cuối
cùng của Phaolô không phải chỉ muốn nhắc cho chúng ta nhớ "Bữa ăn của Chúa"
mà còn khuyên chúng ta vì tính chất của bữa ăn như vậy, nên phải cử hành tiệc
Thánh Thể mà gia tăng bác ái. Bữa ăn của Chúa phải là bữa ăn Huynh đệ.
Ở đây chúng ta hãy
nhớ bài Tin Mừng Luca. Chúng ta đã nói cử chỉ cầm bánh rượu của Ðức Giêsu nơi
bàn tiệc ly đặc sắc quá khiến mỗi khi nhắc lại những lần khác mà Ðức Giêsu cầm
lấy bánh rượu, các môn đệ lại nhớ đến các cử chỉ của Người ở bàn tiệc ly và
dùng chúng làm khuôn mẫu để diễn tả.
Ðiều này rõ ràng
trong bài Tin Mừng hôm nay. Luca kể hôm ấy Chúa muốn thiết những người đi theo
Người vào nơi hiu quạnh. Người cho họ ngả mình xuống thành từng cỗ, mỗi cỗ độ
năm mươi... Rồi Người cầm lấy bánh và hai con cá. Người ngẩng mặt lên trời và
chúc tụng trên bánh và cá, đoạn bẻ ra và ban cho môn đệ để họ thết dân chúng...
Chúng ta bảo bữa ăn
này báo trước bàn tiệc ly và nhất là bàn tiệc Thánh Thể trong Hội Thánh; hay
chúng ta phải nói các bữa ăn Thánh Thể và bàn tiệc ly đã cung cấp cho Luca mọi
yếu tố để thuật lại một câu chuyện xảy ra trước?
Dĩ nhiên câu chuyện
này cũng có ý báo trước những sự việc xảy ra sau... nhưng chính những sự kiện
xảy ra sau đã đem ý nghĩa đến cho câu chuyện xảy ra trước và cung cấp cho nó
những tài liệu để diễn tả.
Chúng ta không cần
nói thêm điều ấy nữa. Nhưng vì Luca đã nhìn vào bàn tiệc Thánh Thể trong Hội
Thánh để thuật câu chuyện đã xảy ra nơi sa mạc, thì chúng ta hãy xem ngoài các
yếu tố báo trước bàn tiệc ly và bàn tiệc Thánh Thể, Luca còn muốn chú trọng đến
điểm nào nữa? Dường như tác giả đã chú ý đến vai trò của các tông đồ. Lúc đó họ
muốn giải tán dân vì thấy bất lực cung cấp lương thực cho dân. Nhưng được Chúa
gợi ý cho dân ăn, họ nhiệt tình muốn đóng góp tất cả và sẵn sàng làm thêm...
Chúa bảo họ tổ chức cho dân ngả xuống thành từng cỗ. Người trao bánh cá cho họ
phân phát... cuối cùng còn thu được 12 giỏ mảnh vụn, đúng số 12 tông đồ.
Những điều ấy há
không đáng suy nghĩ sao? Trong bàn tiệc Thánh Thể, Chúa muốn chúng ta phải biết
nghĩ đến nhu cầu của anh em. Có thể chúng ta bất lực, nhưng Chúa sẽ giúp. Mình
Máu Người còn trao cho chúng ta để chia sẻ, huống nữa là của cải vật chất và
tài năng tự nhiên mà Chúa đã đặt trong tay mỗi người. Chúng ta không phải chia
sẻ những của ấy sao? Chúng ta sợ mất mát thiệt thòi sao, khi thấy cuối cùng còn
thu lại được 12 giỏ mảnh vụn?
Chắc chắn Hội Thánh
ban đầu đã hiểu rằng bàn ăn của Chúa cũng phải là bàn tiệc huynh đệ, nên khi cử
hành mầu nhiệm Thánh Thể, Hội Thánh cũng tổ chức việc chia sẻ nâng đỡ vật chất.
Giáo dân Côrintô đã quên phương diện này, nên Phaolô đã phải nhắc lại. Lời thánh
Phaolô hôm nay cũng chất vấn chúng ta, chúng ta sốt sắng tôn thờ Thánh Thể
nhưng có biết chia xẻ với nhau một cách thực tế không, để không một ai phải
thiếu thốn quá đang khi những người khác thì no đầy?
Thế nên hôm nay chúng
ta phải suy nghĩ về cả ba bài đọc để khi long trọng tôn thờ Chúa trong Thánh
Thể, chúng ta ý thức thêm về nhiệm vụ bác ái để mỗi lần cử hành bàn tiệc của
Chúa, chúng ta lại nghĩ đến bàn ăn của anh em. Nơi bàn thánh chúng ta được Chúa
thì sự sống mới chúng ta nhận được phải đưa chúng ta đến với anh em và chia xẻ
số phận với anh em để khi trở lại dâng lễ chúng ta có bánh rượu là hoa màu
ruộng đất và lao công của con người dâng lên để trở thành bánh nuôi sống và của
uống thiêng liêng cho tất cả chúng ta.
(Trích dẫn từ tập
sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)