Chúa Nhật IV Mùa Chay (năm C, 2010)
Chúng Ta Phải Vui Mừng
Lc 15:1-3. 11-32: 1 Các người thu thuế và các người tội lỗi
đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng.2 Những người Pha-ri-sêu và các
kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống
với chúng."3 Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này.
11 Rồi Đức Giê-su nói tiếp: "Một người kia có hai
con trai. 12 Người con thứ nói với cha rằng: "Thưa cha, xin cho con phần
tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. 13 Ít ngày sau,
người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng
đãng, phung phí tài sản của mình. 14 "Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì
lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh
túng thiếu, 15 nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh
ta ra đồng chăn heo. 16 Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy
bụng, nhưng chẳng ai cho.17 Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: "Biết bao
nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói!
18 Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: "Thưa cha, con
thật đắc tội với Trời và với cha, 19 chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi
con như một người làm công cho cha vậy. 20 Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.
21 Bấy giờ người con nói rằng: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với
cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. .. 22 Nhưng người cha liền bảo các đầy
tớ rằng: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ
dép vào chân cậu, 23 rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc
ăn mừng! 24 Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.
Và họ bắt đầu ăn mừng. 25 "Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng.
Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, 26 liền gọi một
người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. 27 Người ấy trả lời: "Em cậu đã
về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ. 28 Người
anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. 29 Cậu trả
lời cha: "Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào
trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng
với bạn bè. 30 Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha
với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng! 31 "Nhưng người
cha nói với anh ta: "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì
của cha đều là của con. 32 Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con
đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy."
Đoạn
tin mừng 15:11-32 là dụ ngôn thứ ba trong loạt các dụ ngôn nói về cách đối xử
của Thiên Chúa đối với người tội lỗi (15:1-32). Hai dụ ngôn kia là “Chiên lạc”
(15:4-7) và “Đồng bạc đánh mất”
(15:8-10). Trong phần nhập đề chung cho cả ba dụ ngôn (15:1-3), có ba nhóm nhân
vật: một là “các người thu thuế và tội lỗi”, tiến đến gần Chúa Giêsu để nghe
Người (15:1), hai là “Pharisêô và kinh sư” xầm xì về hành động của Người và ba
là Chúa Giêsu. Bố cục của đoạn có thể phân chia như sau: - Nhập đề (15:11), -
Câu chuyện của người con thứ (15:12-19); - Chân dung người cha (15:20-24); -
Câu chuyện người con trưởng và kết luận (15:25-32). Điều đáng lưu ý là câu
chuyện của mỗi người con được trình bày trong 8 câu cân đối với nhau, và ở giữa
là 5 câu nói về chân dung của người cha. Tuy nhiên, “người cha”, patēr
có mặt trong cả ba đoạn và được nhắc đến nhiều nhất
(15:12.17.18.20.21.22.27.28.29). Như thế, chân dung của người cha, cách đối xử
và lời của ông được nhấn mạnh trong trình thuật nầy. Chữ ”bios” (tiền
của) đóng khung trình thuật nầy (15:12.30).
Liên
hệ với hai dụ ngôn trên, dụ ngôn nầy có chung chủ đề về: tội lỗi
(15:1.2.7.10.18.21), chết đi (15:17.24.32) tương tự với việc chiên lạc (15:4.6)
và đồng bạc đánh mất (15:8.9), tìm lại được (15:4.5.6.8.9.24.32), vui mừng
(15:7.10 chara, 15:5.32, chairō), ăn mừng (15:23.24.29.32). Đặc
điểm riêng của dụ ngôn nầy là trình bày rõ thái độ và cách suy nghĩ của những
người mà trong hai dụ ngôn trước gọi là người công chính, nghĩa là người luôn
luôn tuân giữ lề luật (x. 15:7.29); thái độ của Thiên Chúa đối với họ; và sự
vui mừng không chỉ “trên trời” (15:7), trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa
(15:7), mà cả trên trần gian nầy nữa (x. 15:23.32).
Với
nhập đề rất ngắn gọn và đơn giản “một người có hai người con” (15:11) dụ ngôn
nầy sẽ nói về câu chuyện của ba người, chứ không riêng ai.
Câu
chuyện của người con thứ (15:12-19). Đoạn nầy có thể chia thành hai: - Nhận gia
tài, ra đi và hoang phí (15:12-16) và - Quyết định trở về (15:13-19). Trong
phân đoạn đầu (15:12-16), động từ “cho” (15:12.16) đóng khung đoạn và nêu rõ
hai sự kiện tương phản: người cha cho tất cả khi người con thứ đang có tất cả
và người ta chẳng cho gì cả khi anh đang thiếu tất cả. Anh rơi từ thái cực nầy
sang thái cực khác. Lỗi lầm của anh là hoang phí tài sản hơn là đòi chia gia
tài và đi xa (x. 15:13; 30). Trạng từ “một cách trác táng” hoặc “hoang phí” (asotōs) (15:13), chỉ xảy ra ở đây trong
các Tin Mừng. Theo nguyên ngữ, chữ nầy phát xuất từ động từ soō, cũng là sōzō “cứu sống”, “cứu thoát”. Động từ nầy được dùng rất nhiều lần
trong Luca khi nói đến việc Chúa Giêsu chữa lành bệnh (7:50; 8:36), cứu vớt sự
sống (6:9; 9:24), cứu độ (13:23; 18:26; 19:10). Dưới dạng một danh từ, chữ nầy
xuất hiện trong Êph 5:18, Titô 1:6 và 1 Phêrô 4:4, và mang cũng ý nghĩa ấy, chỉ
sự trác táng và say sưa trong các buổi tiệc tùng. Vậy, “asotōs” có thể hiểu là “không cứu vớt được”. Người con thứ đã hoang
phí tài sản đến độ không thể cứu vãn được tình thế của anh. “Trác táng” là tội làm
xấu hổ người cha (Cn 28:7). Việc anh đói rách và đi chăn heo thuê chỉ là hậu
quả của việc anh đã làm. Trong phân đoạn hai (15:17-19), cụm từ “người làm công
của cha” (15:17a và 19b) đóng khung cụm từ quan trọng mà người con thứ sẽ nói với
cha trong phần kế tiếp “con đã phạm tội với trời và với cha; con không đáng gọi
là con cha” (15:18b.19a và 21). Điều anh nghĩ, nhưng đã không nói vì trong thực
tế, người cha đã phục hồi lại quyền làm con cho anh, và chỉ điều chính yếu anh đã
nói là “con đã phạm tội”. Chính điều nầy cần xưng thú để được tha thứ. Động
từ “chết” (15:17) ở đây ở thì hiện tại, chỉ chính xác tình trạng hiện thời của
anh; khác với “đã chết” trong lời của người cha (15:27.32). Vậy, do lời xưng
thú là “đã phạm tội” (15:18.21), người con thứ xếp mình vào nhóm người “tội lỗi
và thu thuế” (x. 15:1).
Chân dung của người cha (15:20-24). Đoạn nầy mở đầu với ghi nhận người
con chỗi dậy đi về nhà cha (15:20a). Tiếp theo là một loạt năm hành động liên
tiếp của người cha được mô tả trong chỉ phần sau của câu 15:20: “thấy”, “động lòng
thương”, “chạy”, “ôm choàng” và “hôn”. Rồi những mệnh lệnh ông ra cho gia nhân
làm: “hãy đem áo ra”, “hãy mặc”, “hãy mang”, “hãy mang bò béo ra”, “hãy giết nó”
(15:22-23). Tất cả những hành động dồn dập nầy biểu lộ của nỗi vui mừng vô biên
của ông. Đó là người con đã chết, nay sống lại và đã mất nay được tìm thấy (x.
15:24). Động từ “chạnh lòng thương” là khởi điểm của các hành động trên. Động từ
nầy tìm thấy trong trình thuật bà góa thành Naim (7:13) và câu chuyện người
Samaritanô nhân lành (10:33). Trong cả ba trường hợp, “chạnh lòng thương” đã cứu
sống người sắp chết hoặc tái sinh người đã chết. Ý nghĩa của việc mang “nhẫn”,
“áo” (x. St 41:42), “giết bò béo” chỉ việc tôn trọng khách đến thăm (St 18:7; 1
Sam 28:24). Vậy, người cha đã đón nhận lại người con trong vui mừng; đồng thời
phục hồi lại cho nó quyền làm con, vì có người cha nào mà không xót thương con
cái mình (x. Tv 103:13).
Câu chuyện người con trưởng (15:25-32). Chữ “con trưởng”, presbyteros, cũng được dùng để chỉ các
“kỳ lão”, những người cùng với thượng tế và luật sĩ chịu trách nhiệm việc bắt và
giết Chúa Giêsu (9:22; 20:1; 22:52). Đặc điểm của đoạn nầy là những gì đã nói đến
về người con thứ và người cha trong hai đoạn trên, được lập lại trên miệng của
người con trưởng có tính cách phê bình và bất bình: “phung phí tài sản” của người
con thứ (15:13.30), quyết định của người cha “giết bò béo” (15:23.27.30) và “mừng
vui” (15:24.29.32). Thái độ nặng nề nhất của người con trưởng là “nổi giận” và
kéo theo hành động là “không vào nhà” (15:28), nghĩa là từ chối tham dự và chia
sẻ niềm vui người em trở về. Anh đưa ra so sánh giữa chính mình và người em, tương
tự câu chuyện của người Pharisêô và người thu thuế (18:10-12), để chỉ ra cách đối
xử bất công và không thể chấp nhận được
của người cha (15:29).
Với người cha, anh tự xem là tôi tớ chứ không phải là con, và giữ lệnh
truyền (lề luật) là điều kiện để có thể đòi hỏi quyền lợi (x. 15:29). Nhưng Thiên
Chúa không mắc nợ những người tôi tớ của Người (x. 17:7-10). Đối với em, người anh
nầy không chấp nhận nó được đối xử rộng lượng và đã phủ nhận tương quan anh em
với nó vì quá khứ tội lỗi của nó, “con của cha”. Thái độ ghen tức nầy cũng là thái độ của những người
làm vườn nho vào giờ đầu tiên (x. Mt 20:11). Câu kết luận (15:32) lập lại điều
người cha đã nói với gia nhân ở trên. Điều được thêm vào ở đây là mời gọi người
anh chia sẻ và cử hành niềm vui ấy, với nhấn mạnh là “phải vui mừng” và đó là
“em con”. Đây là nơi duy nhất Chúa Giêsu kêu gọi cách gián tiếp những người
Pharisêô và kinh sư chấp nhận và vui mừng vì người tội lỗi trở lại. Sự vui mừng
nầy là điểm kết thúc và liên kết các dụ ngôn lại với nhau (15:7.10
chara, 15:5.32, chairō).
Tất
cả được mời gọi chia vui vì người tội lỗi trở lại. Thiên Chúa đã quên quá khứ để
tha thứ. Người con thứ cũng để lại đàng sau quá khứ của mình để trở về. Chỉ người
con trưởng vẫn sống với quá khứ tội lỗi của người khác. Người nầy phải đổi mới
cái nhìn có thể dự phần niềm vui cứu chuộc của Thiên Chúa.
Lm. Luigi
Gonzaga Đặng Quang Tiến