Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu C
Hãy
Chia Vui Với Tôi
Lc 15:1-10: 1 Các người thu
thuế, cùng những kẻ tội lỗi hết thảy thường lui tới bên Ngài để nghe lời Ngài. 2
Và Biệt phái kêu trách. Họ nói: "Ông ấy tiếp đón quân tội lỗi và cùng ăn với
chúng". 3 Ngài mới nói cùng họ ví dụ này, rằng:
4 "Ai trong các
ông, giả sử có trăm con chiên và lạc mất một con, há người ấy lại không bỏ chín
mươi chín con ngay nơi hoang vắng, mà ruổi theo con chiên lạc, cho đến khi tìm
ra con chiên lạc đó ư? 5 Tìm được rồi, há người ấy lại không mừng rỡ, quàng nó
trên vai mình, 6 và về đến nhà, lại không gọi cả bạn bè hàng xóm, mà phân phô với
họ thế này sao: Bà con hãy chia vui với tôi, tôi may đã tìm thấy con chiên lạc
của tôi!? 7 Tôi bảo các ông: Cũng vậy, trên trời sẽ có vui mừng vì một người tội
lỗi hối cải, hơn là vì chín mươi chín người công chính, những kẻ không cần phải
ăn năn!"
8 Hay là: Bà nào có mười
đồng bạc, nếu rủi mất một đồng, há bà ấy lại không chong đèn lên, quét nhà mà
tìm moi tìm móc cho kỳ được đó ư? 9 Tìm được rồi, há bà ấy lại không gọi cả bạn
bè hàng xóm mà phân phô thế này sao: Bà con hãy chia vui với tôi, tôi đã tìm thấy
đồng bạc tôi đánh mất!? 10 Cũng vậy, tôi bảo các ông: Vui mừng ắt ran lên giữa
các thiên thần của Thiên Chúa vì một người tội lỗi hối cải!"
Sau khi trình
bày những điều kiện để có thể đi theo và là môn đệ của Chúa Giêsu, Luca kết luận
là “Ai có tai để nghe, hãy nghe” (14:35). Sang chương 15, những người tội lỗi
và thu thuế đến gần Chúa Giêsu để nghe Người (15:1). Chủ đề chính của chương nầy,
được trình bày bằng ba câu chuyện trong một dụ ngôn, là niềm vui của Thiên Chúa
khi tìm thấy lại người tội lỗi hoán cải. Niềm vui nầy được diễn tả qua bữa ăn:
Thiên Chúa, người tội lỗi và những người được mời đồng bàn với nhau. Trong
chương trước, bữa tiệc của Thiên Chúa dành cho những người nghèo, tàn tật, đui
mù (14:15.21-23); ở đây, dành cho người tội lỗi (15:2.23). Như thế, những câu
chuyện trong chương 15 nầy bênh vực cho sứ vụ của Chúa Giêsu đối với những người
nầy; đồng thời mời gọi những người chống đối Người đến chung vui với những người
tội lỗi hoán cải (15:7, 10, 28, 31-32). Bố cục của chương nầy gồm một dẫn nhập
bối cảnh chung (15:1-2), và ba câu chuyện: con chiên lạc (cc. 3-7); đồng bạc mất
(cc. 8-10); và hai người con (cc. 11-32). Xin đọc chú giải đoạn 15:11-32 trong
Chúa Nhật IV Mùa Chay C.
Dẫn
nhập của diễn từ dụ ngôn (cc.1-2)
Cấu trúc của dẫn
nhập nầy là đối đảo: A. người thu thuế và tội lỗi đến gần Người - để nghe; B.
Người Pharisêô và kinh sư lẩm bẩm; A’ Người tiếp nhận họ - ăn uống với họ. Với cấu
trúc nầy Luca muốn nhấn mạnh sự kiện là người Pharisêô và kinh sư lẩm bẩm vì
Chúa Giêsu tiếp cận và ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi. Hai động từ
“đến gần” và “lẩm bẩm” ở thì quá khứ chưa hoàn thành (imparfait) chỉ sự kiện là
người thu thuế và tội lỗi vẫn lui tới thường xuyên với Người, và nhóm Pharisêô
và kinh sư cứ lẩm bẩm mãi. Hành động lẩm bẩm nầy đã gặp trong một bối cảnh
tương tự (5:27-32; 7:39) và lại cả sau nầy nữa (19:7). Họ trách Người không phải
sự đón tiếp, mà sự đồng bàn với những người ấy; nghĩa là chia sẻ với họ cùng một
sự hiệp thông. Có lẽ họ nghĩ chỉ mình họ mới được quyền ăn uống với Người (x.
7:36; 14:1). Chúa Giêsu nhận lời mời ăn uống của nhóm Pharisêô, và Người cũng
không từ chối ăn uống với những người tội lỗi nầy (x. 5:27;.29 và ở đây).
Mục tiêu những
người thu thuế và tội lỗi lui tới với Người là “để nghe Người”, chỉ lời giảng dạy
của Người (5:1.15; 6:49...). Tuy nhiên, trong văn mạch đoạn nầy, chính những
người Pharisêô và kinh sư mới thật sự là những người cần lắng tai nghe, vì họ
là đối tượng của những câu chuyện dụ ngôn Người sắp nói “Người nói với họ” (c.
3).
Con chiên lạc (cc. 3-7).
Cấu trúc chung
của ba câu chuyện: - có một điều gì đó - mất - tìm lại được - vui mừng và chia
vui - kết luận. Mỗi câu chuyện có một đặc điểm riêng. Câu chuyện trước tiên là
một con chiên lạc. Động từ “mất” được
dùng cách đặc biệt trong chương nầy (cc. 4[2x].6.8.9.17.24.32). Nó không chỉ
nói đến sự lạc mất của con chiên hay
đồng bạc, mà cả sự mất mạng do đói
khát (c. 17). Ý tưởng mất mạng nầy, nói cách khác là bị hủy diệt, được Luca
dùng cách minh bạch hơn ở nơi khác (13:3.5.33; 17:27.29.33; 19:10.47). Bởi đó,
con chiên “bị lạc” bao hàm luôn những tình cảnh nguy hiểm của nó: đói, bệnh tật,
rơi xuống vực thẳm, bị sói vồ… Hành động của người chăn chiên là “bỏ lại” chín
mươi chín con chiên, “đi tìm” ở thì hiện tại diễn tả hành động đeo đuổi kéo
dài, cho đến khi nào hoàn tất việc tìm thấy “cho đến khi tìm được” (c. 4; điểm
nầy khác với Mt 18:12). Động từ “tìm thấy” chuyển tiếp ý tưởng của hai câu (c.
4 và 5).
Những hành động
tiếp theo sau khi tìm thấy là “vác chiên trên vai” đi về nhà trong vui mừng, và
“cùng kêu” bạn bè và bà con đến chung vui. “Vui mừng” và “đi”về nhà ở thể động
tính hiện tại (participle), nói lên sự vui mừng kéo dài từ khi tìm thấy cho đến
khi về nhà và mời mọi người đến chung vui. “Vui mừng”, cả danh từ (1:14;) lẫn động
từ (1:14.28; 6:23; 10:20; 13:17; 19:37) trong Luca thường diễn tả tâm tình hoan
lạc trong tâm hồn vì những điều kỳ diệu Thiên Chúa thực hiện. Trong 1:58, người
ta đến chúc mừng với bà Elizabeth vì Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót cho bà và
cho bà một người con trong tuổi già. “Vui mừng” nầy là một trong những chủ đề
chính của chương nầy: vui mừng (cc. 5.7.10.32), cùng chung vui (cc. 6.9). Ở
đây, Thiên Chúa cùng kêu anh em và bạn bè đến để cùng chung vui, vì chính Người
tìm được chiên lạc. Chiên lạc được tìm ra, nghĩa là cứu sống; đưa về lại với
đàn chiên, nghĩa là về lại với sự hiệp thông. Hai chữ “cùng-” nói lên niềm vui
muốn được san sẻ, vì niềm vui quá lớn. Tính từ sở hữu “của tôi” được dùng để chỉ
những người tội lỗi là thuộc về Người, và chính Người đã đích thân đi tìm và
tìm được. Như thế, vui mừng vì “tìm được chiên lạc” là việc của Thiên Chúa: người
tội lỗi được đem về lại trong sự hiệp thông với Người (x. 6:9).
Câu kết luận của Luca (c. 7) khác với
Matthêô (Mt 18:4). Luca có tính cách khuyến dụ: kêu gọi sự hoán cải nơi người tội
lỗi; trong khi Matthêô nói đến ý muốn cứu độ của Thiên Chúa. Phần đầu của câu 7
nói đến “niềm vui trên trời”, chỉ niềm vui nơi Thiên Chúa. Trước đoạn nầy Chúa
Giêsu kêu gọi hoán cải với cung giọng đe doạ (10:13; 11:32). Tiếp theo đó, Người
chỉ đường cho là nếu hoán cải, sẽ không bị hủy diệt” (13:3.5). “Hủy diệt”, động
từ dùng chung chỉ “lạc mất” của con chiên và đồng bạc. Đến đây, người tội lỗi
“hoán cải” liên tục, không chỉ khỏi bị hủy diệt, mà Thiên Chúa còn vui mừng về
họ nữa. Hoán cải trong trường hợp nầy là nhận ra mình sai lầm như chiên lạc và
để Thiên Chúa đưa mình về lại với Người, vì Người quan tâm và chăm sóc đến chiên
của Người.
Phần thứ hai của câu 7 khó giải thích.
Những “người công chính” ở đây Luca ám chỉ đến những người Pharisêô và kinh sư
(x. 16:15; 18:9)? Và họ không cần hối cải? Có thể Luca không ám chỉ như thế.
Trong các kết luận của ba câu chuyện, Luca đều nói đến sự mời gọi chung vui.
Thái độ của người con trưởng (15:28-30), ở đây mới ám chỉ người Pharisêô và
kinh sư, cho thấy anh chưa phải là người hoàn hảo, và cần hoán cải. Câu chuyện
kết thúc với lời giải thích và mời gọi của người cha (15:32), và không cho biết
người con trưởng nầy sẽ vào dự tiệc chung vui hay không; nghĩa là chờ anh hoán
cải. Đây cũng là dụng ý của các câu chuyện. Ngoài ra, trong một câu tương tự,
ba từ ngữ “người công chính”, “tội lỗi” và “hoán cải” được dùng (5:32), ở đó
Luca cũng không ám chỉ người Pharisêô là người công chính, mà chỉ muốn nhấn mạnh
sứ vụ kêu gọi người tội lỗi hoán cải của Chúa Giêsu. Như thế, câu kết luận có
thể hiểu là Thiên Chúa vui vì cả người tội lỗi lẫn người công chính. Nhưng Người
vui về người tội lỗi hoán cải hơn 99 người công chính, vì sự hoán cải của họ
làm cho đàn chiên của Người đã đủ lại số 100 như ban đầu. Niều vui của Chúa
Giêsu nên sung mãn khi Người tìm lại được tất cả những người tội lỗi.
Người
tội lỗi hoán cải là niềm vui lớn lao của Thiên Chúa. Người chẳng muốn ai phải
hư mất. Hãy có tấm lòng của Thiên Chúa: vui vì người tội lỗi trở lại.
Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến