Chúa Nhật XVII Thường
Niên C
Lạy Cha!
Lc 11:1-4: 1
Lần kia, Ngài cầu nguyện ở một nơi nọ; Ngài xong rồi, thì một môn đồ thưa Ngài:
"Lạy Ngài, xin dạy chúng tôi cầu nguyện, như Yoan đã dạy các môn đồ của
ông". 2 Ngài nói với họ: "Khi cầu nguyện, các ngươi hãy nói:
Lạy Cha
ước gì
Danh Cha hiển thánh,
Nước Cha
trị đến.
3 Xin cho
chúng tôi mỗi ngày có bánh ngày này;
4 Xin tha
tội cho chúng tôi,
vì chúng
tôi cũng tha cho mọi khách nợ;
và chớ để
chúng tôi sa cơn thử thách".
5 Và Ngài
nói cùng họ: "Trong các ngươi, giả sử một người có bạn thân, đi gặp bạn
lúc nửa đêm và nói: Này bạn cho tôi vay ba chiếc bánh, 6 vì có người bạn ngang
đường ghé lại với tôi, mà tôi lại không có gì mà đãi cả: 7 và người kia bên
trong đáp lại bảo rằng: Ðừng làm rầy tôi; cửa đã khóa rồi, con cái tôi lại nằm
cùng giường với tôi; tôi không thể dậy mà cho anh được; - 8 Ta bảo các ngươi:
dẫu nó không muốn dậy mà cho anh ta vì bạn thân, thì cũng vì anh ta mặt dày mày
dạn mà cũng phải chỗi dậy cho anh ta những gì anh ta cần đến".
9
"Và Ta bão các ngươi: Hãy xin, thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ gặp; hãy gõ thì
sẽ mở cho, 10 Vì phàm ai xin thì lĩnh; ai tìm thì gặp; và ai gõ thì sẽ mở cho. 11
Trong các ngươi ai là cha, có con xin cá, há lại lấy rắn thay cá mà cho nó ư? 12
Hay là: nó xin trứng, há lại cho nó bò cạp ư? 13 Vậy nếu các ngươi, tuy là ác,
còn biết lấy của lành làm quà cho con, thì huống hồ là Cha các ngươi, tự trời,
Người sẽ ban thánh thần cho những ai xin Người".
Chỉ có Matthêô và Luca ghi lại Kinh Lạy Cha. Matthêô đặt kinh nầy ở
trung tâm của Bài giảng trên núi, trong khi Luca trong dịp đi lên Giêrusalem,
khi các môn đệ yêu cầu Người. Hai bản nầy khác nhau đáng kể về hình thức. Liên kết hài hòa với đoạn
trước nói về Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu để lắng nghe lời Người, đoạn nầy bắt
đầu bằng sự kiện các môn đệ xin Chúa Giêsu dạy cầu nguyện. Một loạt ba trình
thuật liên quan đến việc cầu nguyện được đưa ra ở đây: Kinh Lạy Cha (11:1-4);
Người bạn đến nửa đêm (11:5-8); và Lời khuyên kiên trì cầu nguyện (11:9-13). Kết
cấu của Kinh Lạy Cha gồm: - Dẫn nhập (c. 1); - Một lời ngỏ với “Cha” (c.2a); -
Hai lời cầu xin liên quan đến Danh và Nước của Cha (c. 2bc); - Ba lời cầu hướng
đến “chúng tôi” (cc.3-4).
Khác với Matthêô, Luca cung cấp một câu dẫn nhập tường thuật (c.1),
trong đó, ông trình bày Chúa Giêsu như là mẫu gương của việc cầu nguyện. “Ở một
nơi” Luca không xác định nơi Người cầu nguyện, nhưng chắc chắn đó là nơi yên tĩnh,
như Người thường làm (5:16; 6:12; 9:18.28). Tính cách không xác định
của nơi chỗ nầy còn ngụ ý là Người cầu nguyện thường xuyên, không có một chỗ nhất
định nào qui định Người phải cầu nguyện trong đó. Trong 10:1, Luca cũng đã dùng
chữ “nơi chỗ” nầy không có mạo từ xác định, để chỉ tính phổ quát của sứ vụ của
72 môn đệ. Chúa Giêsu trở nên mẫu gương cầu nguyện; do đó, các môn đệ đến xin
Người dạy họ làm như Người, dựa trên mẫu gương của Gioan (x. 5:33). Cầu nguyện mà các môn đệ
xin Chúa Giêsu dạy là “proseuchomai”,
khác với “déomai” mà Gioan dạy cho các
môn đệ của ông (5:33). Déomai là xin Thiên
Chúa trợ giúp về một chuyện riêng biệt nào đó (x. 1:13; 5:12; 8:28.38; 9:38.40;
10:2); trong khi đó, proseuchomai là
lời nguyện cầu, như một hành vi thờ phượng, ngỏ trực tiếp với Thiên Chúa, “cầu
nguyện cùng Thiên Chúa” (Lc 6:12; x. 1:10;
3:21; 5:16; 9:28, 29; 11:1.2; 18:1.10; 22:41).
“Khi cầu nguyện, anh em hãy nói” là công thức dẫn vào việc cầu nguyện.
Luca dùng lời xưng hô ngắn gọn “Lạy Cha!” (c. 2a), thay vì “Lạy Cha chúng
con ở trên trời” của Matthêô. “Lạy Cha!” đầu tiên được dùng trong lời tán tụng Chúa
Giêsu ngỏ với Chúa Cha về những mạc khải Người tỏ ra cho những kẻ bé mọn. “Cha”
được gọi là “Chúa của trời và đất” (10:21). Những lần cuối cùng Chúa Giêsu gọi
“Lạy Cha!” khi Người ở trong những giây phút quyết định của cuộc thương khó
(22:42; 23:34.36). Tất cả những lần trên đây, Chúa Giêsu nói có tính cách cá nhân
với Thiên Chúa trong tương quan Cha-Con. Lần nầy (11:2), Người đặt người môn đệ
trong tương quan với Thiên Chúa như là Cha của họ; điều nầy cũng có nghĩa là Người
nâng họ ngang hàng với Người trước mặt Chúa Cha. Và tất cả đều có thể gọi Thiên
Chúa là Cha của mình (x. 6:35).
Phần thứ nhất của Kinh Lạy Cha hướng về Thiên Chúa (11:2bc). “Danh” là
hiện thân của một người; chứ không chỉ là một cái tên (x. 9:48.49). “Danh” của
Người có quyền năng và uy lực như chính bản thân Người. Người dùng “danh” của Người
mà trừ quỉ có hiệu quả như chính Người làm
(9:49); các môn đệ cũng nhân danh của Người mà khuất phục ma quỉ (10:17); Đấng đến
nhân danh Thiên Chúa, chính là người của Thiên Chúa (13:35; 19:38); bị loại trừ
bởi danh Chúa nghĩa là vì người ta ghét Chúa Giêsu mới đối xử như thế cho các môn
đệ (21:12.17). Vậy, “danh của Người” chính
là “Cha”. “Xin Danh Cha được thánh hóa”. Hagiazō,
“làm nên thánh”, đặt riêng ra dành cho Thiên Chúa. Động từ ở passivum divinum có Thiên Chúa làm chủ ngữ
của hành động thánh hoá, và đối tượng là “danh của Người”. Như thế, không phải
con người phải thánh hoá danh Thiên Chúa (x. Is 29:23), mà chính Thiên Chúa làm
việc nầy. Đối nghĩa với “thánh hoá” là “tục hoá”. Ngôn sứ Êzêkiel nói đến việc
Thiên Chúa thánh hoá danh của Người (Ez 26:23), vì danh Người bị dân Israel tục
hóa bởi cách sống vô luân, và hành động thờ ngẫu tượng trong thời kỳ lưu đày
(x. Ezk 36:17-21; 20:39; x. Lv 18:21; 20:3). Cuộc sống của họ ở những nơi họ đến
đã làm ô danh của Người. Do đó, Người quyết định thánh hóa danh của Người; nghĩa
là phục hồi lại tiếng tăm và uy tín của Người, để các dân tộc khác tán dương và
tôn vinh Người. Vậy, “xin danh Cha được thánh hóa” là xin Thiên Chúa canh chừng
để cho mọi người tôn kính Người như là Đấng Thánh và làm vinh quang Người. Để làm
điều nầy, Êzêkiel loan báo một kế hoạch thánh hoá dân chúng: thay một con tim bằng
thịt vào con tim bằng đá (36:24-32). Như thế, danh Thiên Chúa được thánh hoá cũng
chính là con người được phục hồi và cứu chuộc. Trong những trường hợp đã trích
dẫn trên, danh của Chúa Giêsu được dùng để chữa lành và cứu vớt, đồng thời danh
ấy cũng được tôn vinh.
Lời cầu tiếp theo “xin cho Nước Cha đến” (c. 2c) liên hệ chặt chẽ với lời
cầu trước. Để cho danh Người được thánh hoá, quyền bính
và ý muốn của Thiên Chúa phải được thiết lập trên mọi dân tộc. “Nước Thiên Chúa”
là trung tâm lời rao giảng của Chúa Giêsu (4:43; 8:1; 9:11), của nhóm Mười Hai
(9:2), của các môn đệ (9:60; 10:9.11). Nước Thiên Chúa có thể hiểu là “nơi” Thiên
Chúa cai trị và điều khiển, “nơi” mà quyền bính và ý muốn của Người được thi hành
cách hoàn hảo. Việc khi nào Nước Trời đến không phải là trọng tâm của Luca, vì Nước
Thiên Chúa đã đến trong bản thân Chúa Giêsu (x. Cv 28:31), nghĩa là Nước Trời đã
được thiết lập đồng thời với việc Chúa Giêsu đến trần gian. Thấy Chúa Giêsu là đã
thấy Nước Trời (x. 9:27). “Nước Trời kề bên” (10:9.11; 11:20) nghĩa là Nước Trời
ấy đã hiện diện và người ta chưa nhận ra, và chưa tin vào. Trong câu trả lời
cho những người Pharisêô, Chúa Giêsu đã không trả lời cho câu hỏi “khi nào”
(17:20a), mà “như thế nào” là “Nước Thiên Chúa không đến để được xem thấy”
(17:20b). Luca quan tâm hơn đến cách thể hiện của Nước ấy một khi đã đến trần
gian. Các dụ ngôn về Nước Trời minh họa điều nầy. Hạt cải, nhúm men bé nhỏ không
đáng kể và không dễ thấy, nhưng hiệu quả của chúng rất lớn. Những điều kiện để
Nước Trời đến, hoặc để có thể đến trong Nước Trời là đón
nhận Nước Trời như một trẻ nhỏ (18:16-17); không là người giàu có (18:25); từ bỏ
những liên hệ thân thiết nhất của gia đình (18:29). Điều nầy làm liên tưởng đến
quyết định của Thiên Chúa muốn phục hồi lại danh thánh của Người: Người làm mọi
cách cho dân của Người thay đổi và trở về đường công chính (36:24-32). Nước Thiên
Chúa đã đến trong tâm hồn các môn đệ, khi Chúa Cha mạc khải cho họ những điều
thuộc về Nước Trời (x. 8:10; 10:21).
Phần thứ hai liên quan đến những nhu cầu của con người “chúng tôi”
(11:3-4). Những lời cầu xin trong phần nầy không tách lìa khỏi hai lời cầu xin
trước; trái lại gắn chặt với nhau. Những nhu cầu con người đặt trong tương quan
với việc làm hiển thánh Danh Cha, và việc Nước Trời đến.
Lời cầu trước tiên liên quan đến “bánh chúng tôi”, nghĩa là việc nuôi sống
(c. 3a). Trong khi Matthêô xin bánh cho “ngày hôm nay” tức thời (Mt 6:11), Luca
nghĩ đến bánh “mỗi ngày”, cụm từ quen thuộc của Luca (9:23; 16:19; 22:53; Cv
2:46-47; 3:2; 16:5; 17:11). Mỗi ngày nói lên tính cách lâu dài của cuộc sống. Động
từ “cho” ở thì hiện tại có tính lập lại, liên tục và kéo dài. “Cho” còn nói thêm
là bánh là ân huệ Thiên Chúa ban. Đây là xác tín: Thiên Chúa nuôi dân Người từ
khi Người tạo dựng nên họ (12:30). Người nuôi họ trong sa mạc bằng manna, phép
lạ hoá bánh cá ra nhiều (9:10b-17), và Người căn dặn chớ lo
lắng cho mạng sống (12:22-32). Thiên Chúa bảo đảm cho họ mọi thứ họ cần để nuôi
sống. Việc họ phải làm là tìm kiếm Nước Thiên Chúa (x. 12:31), nghĩa là làm hiển
thánh danh Thiên Chúa và làm cho Nước Người ngự đến.
Nhưng là bánh gì? Tính từ epiousios là từ hiếm, chỉ thấy trong Mt
6:11 và Lc 11:3. Ý nghĩa của nó đang bàn cãi; nguồn gốc của từ không rõ rệt;
các giáo phụ chú giải rất khác nhau. Có
thể tóm tắt một số cách giải thích. Epiousios có thể hiểu nó xuất phát
từ động từ ienai “đến” hay einai “là”. “Epi” diễn tả sự liên tục trong thời gian. Nếu cho rằng tính từ nầy
phát xuất từ ienai, “đến”, epiousios có nghĩa là đang đến;
và cụm từ trên có nghĩa là bánh cho ngày đang
đến, ngày nầy tiếp ngày kia (x. Cv 16:11; 20:15; 21:18; 7:26; 23:11). Nếu
cho rằng tính từ nầy bởi einai, “là”,
cụm từ có nghĩa là bánh thiết yếu. Nếu
xét bản văn nầy trong văn mạch, có thể sẽ thấy rõ hơn. Các môn đệ được Chúa Giêsu
mời gọi bỏ tất cả, không chỉ những quan hệ gia đình thân thiết nhất (9:59-62),
mà cả những bảo đảm của cuộc sống, như nơi ở (9:58), phương tiện (10:4). Của ăn
nuôi sống của họ tùy thuộc vào nơi họ đến và lòng hiếu khách của người khác
(10:7). Và họ cũng đã chứng kiến việc Chúa Giêsu làm bánh và cá nên nhiều để nuôi
dân chúng trong hoàn cảnh không thể đối với họ. Như thế, Người muốn họ tin tưởng
vào Người, và chỉ cầu xin bánh của từng ngày đang đến.
Lời cầu xin tha tội (10:4). Sau khi đã cầu xin Cha như là Đấng Tạo
Hoá, nuôi sống phần xác, người môn đệ cầu xin Người như là Đấng Cứu Độ, giải
thoát phần hồn. Luca dùng “harmatia”
“tội lỗi”, thay vì “opheilēma” “nợ”
(Mt 6:12). “Tha thứ” và “tội lỗi” hai từ thường đi đôi với nhau và rất quen thuộc
trong Luca. Theo Luca, Chúa Giêsu đến mở ra thời kỳ cứu độ của Thiên Chúa, trong
đó con người sẽ được tha thứ qua Người Con nầy (x. 5:20-21.23-24; 7:47-49; 24:47;
Cv 2:38; 3:19; 5:31; 13:38). Đối với ông, sự tha thứ liên kết với việc hoán cải
và chịu phép rửa (Cv 2:38), nghĩa là từng cá nhân phải dấn thân vào để sự tha
thứ có thể nên hiệu quả trong họ. Bởi đó, sự cứu độ của Thiên Chúa cần được
loan báo cho mọi người (1:77), sự tha thứ cần được rao giảng (24:47), và lời cầu
xin “tha tội” phải làm mỗi ngày.
Trong phần thứ hai
của lời cầu xin tha tội, hành vi tha thứ của “chúng tôi” được so sánh như hành động
tha thứ của Thiên Chúa (c. 4b). Luca không xem đây như là một điều kiện như
trong Matthêô (18:35). Ông muốn diễn tả sự tương đồng trong cách hành động giữa
Thiên Chúa và các môn đệ. Điều đòi hỏi căn bản và rõ ràng nhất Chúa Giêsu nhắc đến
để có thể lãnh nhận sự tha thứ là lòng hối cải (metanoia) (5:32; 10:13; 11:32; 13:3.5; 15:7.10). Người cầu xin sự
tha thứ, giả thiết họ đã hối cải (c. 4a). Và bởi họ hiểu lòng hoán cải là cần
thiết, họ cũng tha thứ cho những người có lòng hối cải. Chúa Giêsu dạy các môn đệ
điều nầy là tha thứ cho anh em, nếu như họ nói “Tôi hối cải” (17:3-4). Hành động
tha thứ nầy (ở thì hiện tại) phải thực hiện ngày mỗi ngày. Như thế, có sự liên
kết chặt chẽ giữa sự tha thứ của Thiên Chúa và “chúng tôi” (6:37).
Lời cầu xin sau cùng
“xin đừng đưa chúng tôi vào trong cám dỗ” (c. 4c). Eispherō, nghĩa là “mang vào bên trong”, như người ta tìm cách mang
người bại liệt vào trong nhà (5:18.19; 12:11). Peirasmos, “thử thách”, “cám dỗ”, muốn kéo con người đi ra ngoài ý muốn của Thiên
Chúa (4:13; 8:13; 22:28). “Cám dỗ”, không có mạo từ xác định, chỉ thử thách cách
chung và không xác định, có thể là lo lắng cuộc sống, giàu có, thú vui…(8:14).
Có “thời cám dỗ” sẽ đến (8:13). Ma quỉ
thường chịu trách nhiệm việc cám dỗ nầy (4:2). Tuy nhiên, nhiều bản văn của Cựu
ước nói đến việc Thiên Chúa thử thách/cám dỗ dân Người. Khẳng định trước là Thiên
Chúa không bao giờ cám dỗ con người làm điều xấu (x. Giac 1:13). Trái lai, mục đích
việc cám dỗ của Người là để làm cho họ kính sợ Người và không phạm tội (x. Xh
20:20; x. 16:4), để dò xét tâm hồn và xem có tuân giữ giới răn của Người hay không
(Đnl 8:2), để xem biết tình yêu đối với Người (Đnl 13:3; Quan án 2:22). Trong
Luca, không thấy Thiên Chúa cám dỗ ai, mà Người để Chúa Giêsu chịu cám dỗ
(4:1-13), các môn đệ (22:28). Việc dùng thức cầu khẩn thời bất định (aorist subjuntive)
ở ngôi thứ hai với “mē” diễn tả một lệnh cấm về một loại hạng nhất định nào đó. Nên tốt hơn
là hiểu “xin đừng đưa chúng tôi vào trong cám dỗ” như là đừng cho phép cám dỗ xảy
ra, hơn là Thiên Chúa là nguyên nhân của hành động. Vậy, vì nguy cơ sa vào cám
dỗ rất lớn (8:13; 22:40.46), người môn đệ phải xin điều nầy mỗi ngày.
Vinh quang của Thiên Chúa và sự cứu độ của con người gắn liền nhau.
Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến