Chúa Nhật 2 Thường
niên, C
2010
Chúa Giê-su tỏ mình
là Đấng cứu độ qua sự kiện ba nhà Đạo sĩ phương Đông tới kính thờ và qua việc
Thiên Chúa Cha giới thiệu Người bên bờ sông Gio-đan. Hôm nay, bài Tin Mừng kể lại phép lạ đầu tiên
Chúa Giê-su thực hiện tại Ca-na nhắm mục đích “bày tỏ vinh quang của Người và
các môn đệ đã tin vào Người”. Phép lạ
đánh dấu khởi đầu sứ vụ của Chúa Giê-su.
Sự xuất hiện của Chúa Giê-su khai mở một triều đại mới, triều đại của ơn
cứu độ. Vậy Phụng vụ Lời Chúa hôm nay
nói gì về sự hiện diện và sứ vụ của Chúa Giê-su giữa lòng nhân loại?
1. Viễn tượng thay đổi nhân
loại do sự hiện diện của Đấng cứu độ theo cái nhìn của ngôn sứ I-sai-a (bài
đọc Cựu Ước – I-sai-a 62:1-5)
Đấng cứu độ được sai
đến trần gian là để làm một cuộc thay đổi tận gốc rễ. Ngay từ thời Cựu Ước, ngôn sứ I-sai-a đã nhìn
thấy viễn tượng thay đổi này. Ngôn sứ
lấy hình ảnh của Xi-on và Giê-ru-sa-lem được thay đổi để nói về một cuộc thay
đổi toàn bộ cục diện nhân loại. Vậy
trước hết ta hãy nghe I-sai-a trình bày viễn tượng đổi thay của Xi-on và Giê-ru-sa-lem.
Đồi Xi-on cũng như thành Giê-ru-sa-lem
đã trở nên hoang tàn sau khi Ít-ra-en rơi vào tay đế quốc Ba-by-lon. Dân cư thì bị phát lưu nơi xứ lạ quê người và
làm thân nô lệ. Đền Thờ bị tục hóa, các
đồ thờ phượng bị lấy đi hoặc bị làm ô uế.
Thân phận của Xi-on và Giê-ru-sa-lem giờ đây quả là “đồ bị ruồng bỏ” và
“phận bạc duyên ôi”. Dường như Thiên
Chúa cũng không thèm ngó ngàng cứu giúp.
Những người con của Giê-ru-sa-lem lúc này đang ngồi khóc bên bờ sông
Ba-by-lon. Hy vọng trở về cố hương mong
manh như sợi chỉ. Vậy mà giữa đám người
lưu đày và thất vọng ấy, niềm hy vọng đã lóe sáng khi ngôn sứ I-sai-a loan báo: “Ngày đức công chính xuất hiện tựa hừng đông,
ơn cứu độ của thành rực lên như ngọn đuốc” (Is 62:1).
Mọi sự được đổi mới khi đức công chính
xuất hiện và ơn cứu độ rực lên. Đó là
viễn tượng của Ít-ra-en mới theo cái nhìn của ngôn sứ I-sai-a. Cuộc đổi mới này được I-sai-a thi vị hóa qua
hình ảnh hôn nhân. Nó làm cho Thiên Chúa
vui mừng tựa như cô dâu là niềm vui cho chú rể.
Tuy nhiên I-sai-a không dừng lại ở cuộc
đổi mới Ít-ra-en, mà chỉ dùng hình ảnh ấy để nói về toàn thể nhân loại sẽ được
đổi mới do công cuộc cứu độ của Chúa Giê-su.
Ở đây vị ngôn sứ dùng nhiều hình ảnh ám chỉ về Chúa Giê-su. Người là “đức công chính xuất hiện và ơn cứu
độ rực lên”. Người được Chúa Cha sai
xuống trần gian, làm “chú rể” để cưới “cô dâu” nhân loại. Người sẽ đổi tên của nhân loại, hay nói đúng
hơn, Người sẽ đổi danh phận của nhân loại giống như Đức Chúa đổi danh phận của
Giê-ru-sa-lem. Một Giê-ru-sa-lem bị
nguyền rủa là “Đồ bị ruồng bỏ” và “Phận bạc duyên ôi” được đổi thay thành “Ái
khanh lòng Ta hỡi” và “Duyên thắm chỉ hồng”.
Cũng thế, Chúa Giê-su đến để thay đổi căn tính của nhân loại. Từ những kẻ thù của Thiên Chúa, ta được mời
gọi làm con cái của cùng một Cha trên trời.
Từ những kẻ bị tội lỗi tước đoạt hết mọi sự, nhất là sự sống đời đời, ta
được phục hồi quyền thừa kế gia nghiệp của Thiên Chúa cùng với Con Một Người là
Chúa Ki-tô. Cuộc thay đổi này là nhiệm
cục cứu độ đã được Thiên Chúa Cha hoạch định từ trước, nay đang được Chúa Ki-tô
thi hành và sức mạnh của Thánh Thần tiếp tục hoàn tất.
2. Thay đổi bộ mặt trái đất
là công việc của Chúa Thánh Thần (bài đọc Tân Ước – 1 Cô-rin-tô 12:4-11)
Chúa Giê-su không thực
hiện công cuộc cứu độ một mình, nhưng theo “kế hoạch yêu thương” (Ep 1:9) của
Thiên Chúa Cha và trong sức mạnh của Thánh Thần (Ep 1:3.14). Suy niệm của thánh Phao-lô trong bài đọc Tân
Ước cho thấy Thánh Thần không chỉ hoạt động trong sứ vụ của Chúa Giê-su (Lc
4:1.18), mà còn tiếp tục hoạt động qua những đặc sủng nơi những ai mở lòng đón
nhận ơn cứu độ. Thực vậy, Thánh Thần
hoạt động trong việc rao giảng ơn cứu độ thì cũng hoạt động trong việc lãnh
nhận ơn cứu độ, nghĩa là Chúa Thánh Thần ảnh hưởng cả người rao giảng Tin Mừng
lẫn người lắng nghe Tin Mừng.
Trong đoạn thư hôm nay, tuy thánh
Phao-lô nêu lên những hình thái hoạt động khác nhau của Chúa Thánh Thần, nhưng
cốt ý là trình bày sự liên kết hài hòa của Thiên Chúa Cha, Chúa Ki-tô và Chúa
Thánh Thần để thực hiện kế hoạch cứu độ.
Thánh Tông đồ khẳng định đặc tính duy nhất và hiệp nhất của kế hoạch
ấy. Để ơn cứu độ được rao giảng, đón
nhận và viên mãn, đặc tính duy nhất này phải được thể hiện trong những “đặc
sủng, việc phục vụ và hoạt động” khác nhau.
Đặc tính duy nhất ấy đưa ta trở về nguồn để nhận ra các đặc sủng là do
một Thần Khí, các việc phục vụ là do một Chúa (Ki-tô) và các hoạt động là do
một Thiên Chúa (Cha). Sau khi trình bày
đặc tính duy nhất và hiệp nhất của kế hoạch cứu độ, thánh Phao-lô đặc biệt nói
đến những hoạt động cụ thể của Thánh Thần trong việc loan báo và đón nhận ơn
cứu độ. Để giúp việc loan báo ơn cứu độ,
Chúa Thánh Thần ban cho ta “ơn khôn ngoan để giảng dạy, ơn hiểu biết để trình
bày”. Để giúp ta đón nhận ơn cứu độ, Chúa
Thánh Thần ban cho ta “lòng tin”. Để nói
lên những dấu chỉ giúp người ta nhận biết ơn cứu độ, Chúa Thánh Thần ban những
ơn đặc biệt cho một số người, như “ơn chữa bệnh, ơn làm phép lạ, ơn nói tiên
tri, ơn phân định thần khí, ơn nói các thứ tiếng lạ, ơn giải thích tiếng lạ”. Như thế, quả thực thánh Phao-lô đã cho ta một
hình ảnh sinh động về kế hoạch cứu độ, được thực hiện trong sự hiệp nhất của Ba
Ngôi Thiên Chúa và trong sự loan báo cũng như đón nhận của tất cả những ai muốn
cộng tác vào kế hoạch ấy. Điều quan
trọng là ta có thực sự nhận biết sự sinh động này hay không, nhờ đó ta không
trở thành kẻ bàng quang hay thụ động đứng ngoài kế hoạch cứu độ yêu thương,
nhưng tích cực làm kẻ đón nhận và giúp người khác đón nhận ơn cứu độ.
Đặc sủng của Thánh Thần có nhiều thứ
khác nhau, được biểu lộ tùy theo hoàn cảnh và nhắm tới cùng một mục đích. Ta không thể nói “tôi chẳng có đặc sủng nào
của Thánh Thần”. Ta có thể “chữa bệnh”
khi đem lại cho anh chị em một niềm vui đích thực. Ta có thể “phân định thần khí” khi giúp cho
con cái nhận biết đâu là chọn lựa tốt hoặc xấu.
Ta có thể “nói tiên tri” khi chỉ dẫn cho những người ta có trách nhiệm
biết hướng đến một tương lai tốt đẹp…
Tóm lại, Thánh Thần không hoạt động cách ồn ào nơi ta như thác nước đổ
trên tảng đá, nhưng nhẹ nhàng như những giọt nước thấm vào miếng bọt biển. Điều chắc chắn là Người vẫn tiếp tục những
hoạt động của Chúa Ki-tô nơi tâm hồn ta và những người chung quanh ta, để “thay
đổi bộ mặt trái đất”.
3. Phép lạ Ca-na và khởi đầu
sứ vụ công khai của Chúa Giê-su (bài Tin Mừng – Gio-an 2:1-11)
Kể lại phép lạ Chúa
Giê-su biến nước thành rượu, thánh Gio-an không chỉ quan tâm đến việc làm của
Người, nhưng ngài còn cẩn thận ghi chú:
“Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên
này tại Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người” (Ga 2:11).
Rõ ràng thánh sử
muốn nói lên tầm quan trọng của phép lạ qua hai chi tiết: dấu lạ đầu tiên và tạo lòng tin cho các môn
đệ. Ngài sử dụng từ dấu lạ thay vì phép lạ. Dấu
lạ là một sự kiện mắt thấy tai nghe, nhưng đưa ta đến việc nhận ra một điều gì
đó sau khi chứng kiến hoặc nghe kể về sự kiện ấy. Như thế, dấu lạ đầu tiên cho thấy phép lạ
Ca-na mở đầu cho một loạt những dấu lạ khác, nhưng tất cả đều được nhắm vào
cùng một mục đích là để bày tỏ vinh quang của Chúa Giê-su và tạo niềm tin vào
Người. Viết về những dấu lạ Chúa Giê-su
đã làm, thánh Gio-an dám quả quyết: “Còn
có nhiều điều khác Đức Giê-su đã làm.
Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách
viết ra” (Ga 21:25). Điều này nhắn nhủ
ta một sứ điệp: Có thật nhiều “dấu lạ”
để giúp ta nhận biết Thiên Chúa và tình yêu của Người, khiến ta không thể nhắm
mắt làm ngơ.
Sứ vụ của Chúa
Giê-su là rao giảng Tin Mừng, không chỉ bằng lời nói mà còn bằng những việc làm
và lối sống của Người. Việc làm hỗ trợ hoặc
chứng minh cho lời giảng của Người. Tuy
nhiên, dù lời nói hay việc làm thì tất cả sứ vụ đều nhắm mục đích giúp “mọi
phàm nhân nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng
Cha đã sai đến là Giê-su Ki-tô” (Ga 17:3).
Vậy phép lạ Ca-na nhắm mục đích nào nơi ta? Điểm cốt yếu dấu lạ muốn nói lên là: Chúa Giê-su là Đấng cứu độ thay thế cho Lề
Luật của Cựu Ước; và ta cần được biến đổi từ không tin đến có lòng tin vào Chúa
Giê-su giống như nước được biến thành rượu.
Biến đổi nhân loại là mục tiêu của kế hoạch cứu độ. Chúa Giê-su bắt đầu thực hiện kế hoạch ấy
bằng việc rao giảng Tin Mừng và làm những dấu lạ. Người sẽ kết thúc kế hoạch tại trần gian bằng
cái chết của Người trên thập giá và sự sống lại vinh hiển. Như thế, ngay trong phép lạ đầu tiên, Chúa
Giê-su đã cho ta thấy hành trình cứu độ của Người, từ Nhập Thể tiến đến “giờ”
vinh quang của Người trên thập giá. Muốn
tham gia vào hành trình cứu độ ấy, Chúa đòi hỏi ta phải để Người biến đổi
ta “tin vào Người” như các môn đệ đầu tiên
đã tin vào Người sau dấu lạ đầu tiên Người làm tại Ca-na.
4. Sống Lời Chúa
Trong bất cứ một kế
hoạch nào, bước đầu tiên thật là quan trọng.
Trong nhiều lời nguyện Nhập lễ, phụng vụ thường có những lời
nguyện: Những gì Chúa đã khởi sự tốt
đẹp, thì xin Chúa cũng hoàn tất toàn hảo nơi chúng con. Khởi đầu sứ vụ cảu Chúa Giê-su đã được trình
bày qua những hình ảnh tuyệt vời của Giê-ru-sa-lem mới, những đặc sủng của
Thánh Thần và nhất là việc Chúa biến nước thành rượu trong tiệc cưới Ca-na. Sứ vụ cứu độ ấy lại được tiếp nối trong sức
mạnh hoạt động của Chúa Thánh Thần.
Không những ta được mời gọi tiếp nhận ơn cứu độ, mà còn được mời gọi
tham gia vào việc loan báo ơn cứu độ cũng như đồng hành với anh chị em trên con
đường cứu độ nữa.
Suy nghĩ: Nói về “việc phục
vụ và hoạt động”, thánh Phao-lô viết:
“Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ
có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người”.
Trong việc loan truyền ơn cứu độ, những việc phục vụ và hoạt động của
tôi có nhắm mục đích duy nhất là làm cho Chúa không? Hay những việc phục vụ và hoạt động của tôi
còn ẩn giấu những mục đích không chính đáng?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa
đã muốn cho chúng con cùng được chia sẻ một tấm bánh, cùng được uống chung một
chén rượu; xin cho chúng con đây biết
thành tâm hiệp nhất trong tình yêu của Đức Ki-tô, để nhờ đó mà cả thế giới này
được hưởng ơn cứu độ. Chúng con cầu xin,
nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con.
A-men. (Lời nguyện Hiệp lễ, Chúa Nhật 5 Thường niên).
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi