Chúa Nhật 27 Thường Niên Năm C
Làm việc với lòng tin
(Habacuc 1,2-3; 2,2-4; 2 Timôthê 1,6-8.13-14; Tin Mừng Luca
17,5-10)
Phúc Âm: Lc 17, 5-10
"Nếu các con có
lòng tin".
Khi ấy, các Tông đồ
thưa với Chúa Giêsu rằng: "Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con".
Chúa liền phán rằng: "Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các
con khiến cây dâu này rằng: 'Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển', nó liền
vâng lời các con.
"Ai trong các
con có người đầy tớ cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở về, liền bảo nó
rằng: 'Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa', mà trái lại không bảo nó rằng: 'Hãy lo
dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau
đó ngươi mới ăn uống'. Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã
làm theo lệnh ông dạy không? Thầy nghĩ rằng: Không. Phần các con cũng vậy, khi
các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng:
'Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải
làm'".
Suy Niệm:
Ðời sống tôn giáo và
đạo đức của chúng ta hiện nay là đời sống đức tin. Tùy như lòng tin của chúng
ta mạnh hay yếu, sâu xa hay nông cạn, bao quát hay hạn hẹp, mà đời sống đạo của
chúng ta tăng trưởng hay suy kém, đậm đà hay hời hợt, toàn diện hay cục bộ. Ý
thức về vai trò trọng yếu của đức tin như thế, chúng ta luôn nên bắt chước các
tông đồ ngày xưa cầu xin với Chúa Giêsu rằng: Xin Thầy ban thêm lòng tin cho
chúng con. Và các bài đọc hôm nay gợi ý với chúng ta phải gia tăng đức tin về
những mặt nào trong đời sống.
1. Phải Có Ðức Tin Ðể
Hiểu Biết Hoàn Cảnh
Trước tiên có bài
sách Habacuc. Nhà tiên tri sống khoảng 600 năm trước Chúa Giêsu giáng sinh. Ðó
là thời của những đại tiên tri như Giêrêmia và Êzêkien. Ðó cũng là buổi nước
Giuđa trải qua nhiều hoàn cảnh éo le. Trong nước triều đình suy yếu, ngoại giáo
xâm nhập, đạo đức đảo điên. Bên ngoài, sức ép của các lân quốc càng ngày càng
mạnh và càng gần. Ðặc biệt một cuộc xâm lấn võ trang của đế quốc
Các tiên tri còn nhìn
thấy hoàn cảnh rõ ràng hơn. Thiên Chúa đã sai các người đến cảnh cáo triều
đình, hàng tư tế và toàn dân. Nếu họ không hồi tâm trở về với Thiên Chúa bằng
cách giữ các lệnh truyền của Người, đất nước của họ sẽ bị giày xéo, bản thân họ
sẽ bị lưu vong, và đền thờ sẽ bị tàn phá. Mặc cho các tiên tri cao giọng và
thống thiết kêu gọi, rất ít nỗ lực cải thiện đời sống. Rõ ràng sự phải đến sẽ
đến. Các hình phạt của cơn lôi đình Thượng đế sẽ ập xuống. Toàn thể sẽ bị tiêu
diệt, chỉ trừ một số nhỏ sống sót sẽ được Thiên Chúa dùng lại làm mầm mống cho
một dân mới và một tôn giáo mới, trung tín và nội tâm hơn.
Các tiên tri đã nhìn
thấy hoàn cảnh như vậy. Các người chấp nhận sống các thử thách chính đáng.
Nhưng khi các sự việc xảy ra, nhiều tiên tri có những tâm tư bất ổn. Tác giả
sách Habacuc là một. Ít ra ông đã viết lại các tâm tư này và tìm lời giải đáp.
Tác phẩm của ông và riêng bài sách hôm nay giống như một đối thoại giữa con
người và Thiên Chúa về các diễn biến lịch sử. Tuy đây là lịch sử của nước Giuđa
và đã xa rồi, nhưng vì cũng là lịch sử thánh, biểu lộ thánh ý của Thiên Chúa,
nên luôn còn giá trị đạo đức cho dân tín hữu. Chúng ta có thể nhìn thấy hoàn
cảnh của mọi người ở mọi thời, và theo những mức độ khác nhau, trong cuộc đối
thoại này.
Nhà tiên tri bắt đầu
nói lên các tâm tư của mình. Ông đang sống trong thử thách mà tội lỗi của dân
cứng cổ đã gây ra. Ông chấp nhận hoàn cảnh hiện tại như là roi trừng phạt của
Thiên Chúa muốn cải hóa con cái mình. Nhưng thú thực các đau khổ dài quá rồi.
Là vì chúng ta biết cuộc lưu đày
Nhiều khi chúng ta có
thể đồng ý với nhà tiên tri để nói lên những lời như thế. Niềm tin của con
người lắm khi phải khủng hoảng. Tại sao cuộc đời của con người lại khổ lâu như
thế này? Nói rằng do tội lỗi ư? Nhưng những cây roi đang đè nặng trên thân xác
con người cũng không xứng đáng hơn người bị đánh. Ấy là chưa muốn nói: Sự thật
còn tệ hơn! Bài sách Habacuc diễn tả tâm tư của con người trong nhiều hoàn cảnh
thử thách, không xa lạ nhiều đối với chúng ta.
Nhưng các nhà tiên
tri không phải chỉ biết nói lên những điều về thân phận con người. Ðặc sắc của
các tiên tri là còn biết nhận ra các phán quyết của Thiên Chúa. Các người hướng
dẫn chúng ta khám phá quan điểm và lối nhìn của Thượng đế. Habacuc đã làm công
việc này trong phần để cho Thiên Chúa trả lời các tâm tư của người tín hữu đau
khổ.
Người truyền cho nhà
tiên tri cầm cây viết, ghi trên bảng thánh quyết của Người cho thiên hạ dễ đọc
thấy, để họ tin chắc chắn. Người sẽ vứt bỏ kẻ bất chính và ban sự sống thật cho
người tín nghĩa.
Ðó là điều Người đã
quyết định, đã từng nói trước cần phải viết ra, ghi sâu vào bảng đá. Người đã
nói và Người sẽ làm. Người không tuyên bố gì mà lại không xảy ra. Chữ viết và
bảng đá để làm chứng. Nếu người ta chưa thấy xảy ra, thì cứ đợi chờ; chắc chắn
sẽ xảy đến, chẳng còn bao lâu nữa. Kẻ không tin sẽ phải bẽ bàng, còn ai tín
nghĩa sẽ nhận được sự sống thật.
Do đó đời sống đức
tin luôn luôn là một sự lựa chọn: lựa chọn tin hoặc không tin Lời Thiên Chúa.
Ai tin là người tín nghĩa, còn kẻ không tin sẽ vứt bỏ Lời Người và cậy dựa vào
các an ủi của trần gian mau qua.
Thật ra, đứng trước
lời tuyên sấm của Habacuc, đa số người Do Thái, ngay cả trong đám lưu vong đã
không lựa chọn niềm tin. Họ muốn có một Thiên Chúa như họ, giải quyết tức khắc
các vấn đề theo suy nghĩ của họ. Họ không muốn tin Thiên Chúa mà chỉ muốn dùng
Người phục vụ các tham vọng ích kỷ của họ. Như vậy Thiên Chúa đâu còn là Thiên
Chúa. Những người có đức tin trái lại công nhận các giới hạn của con người nên
phó thác tất cả trong tay Chúa. Họ tin lời Người. Họ chỉ lo giữ tín nghĩa. Họ
chắc chắn Thiên Chúa là Ðấng Trung thành. Người không thể lừa dối ai. Cuộc đời
của những người suy nghĩ như vậy mới là sống đức tin. Chứ những người không
muốn chờ đợi gì cả thì còn tin cái gì?
Tiên tri Habacuc hôm
nay đã dạy chúng ta bài học sơ đẳng này. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng
ta có chấp nhận để Thiên Chúa hướng dẫn, hay chúng ta muốn bắt Người chiều theo
ý chúng ta? Chúng ta có tin rằng kẻ bất chính sẽ lụn bại và người tín nghĩa sẽ
được sống không? Có lẽ nhiều khi chúng ta phải bắt chước các tông đồ xưa,
"Xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng con!".
2. Phải Có Ðức Tin Ðể
Làm Việc
Và Chúa Giêsu đã đáp
lại lời cầu xin của các tông đồ. Người không nói sẽ ban thêm lòng tin cho các
ông. Người đáp trả bằng việc: khơi thêm lòng tin ấy. Người nói để các ông tin
thêm nữa. Người bảo: Nếu các ngươi có lòng tin bằng hạt cải, thì dầu các ngươi
có bảo cây dâu này: "Hãy bứng rễ này đi mà xuống mọc dưới biển", nó
cũng sẽ vâng lời các ngươi. Chúng ta ngày nay gọi lòng tin như thế là lòng tin
chuyển núi dời non. Nhưng có lẽ chúng ta chú trọng đến hiệu quả công việc mà
không chú ý đến chính việc làm. Chúng ta chờ có thể sai bảo được núi non. Chúng
ta muốn thấy cây dâu nghe lời chúng ta mà bứng rễ nó đi mà xuống mọc dưới đáy
biển. Nhưng chúng ta lại ít muốn làm việc với lòng tin. Tôi thiển nghĩ ở đây
Chúa muốn nói rằng chúng ta cứ lấy lòng tin mà làm việc đi thì rồi chúng ta sẽ
thấy những kết quả lạ lùng. Chúng ta muốn có kết quả này trước khi thi hành
việc Chúa truyền dạy, thế nên chúng ta chưa thấy Lời Chúa là chân lý và là sức
mạnh.
Vậy Chúa muốn chúng
ta có lòng tin mà làm việc, làm tất cả công việc mà phận sự đòi buộc. Và vì đa
số chúng ta chẳng làm gì trong xã hội, huống nữa là ở trước mặt Chúa, nên Người
đã nói thêm một hình ảnh. Người đầy tớ trong nhà làm việc thế nào? Anh ta làm
hết công việc cày bừa ngoài đồng, rồi lại về làm các việc trong nhà. Anh không
đòi được trả công tức khắc. Lòng tín nghĩa bảo anh làm hết mọi công việc đã
phân chia cho anh. Mặc nhiên anh chắc chắn chủ sẽ thi hành phận sự của chủ.
Người có đức tin cũng
phải như vậy. Họ sống đúng chức năng khi làm việc hết khả năng theo như phận sự
đòi buộc; và dành quyền xét xử cho Thiên Chúa. Và làm như vậy, họ sẽ thực hiện
được những điều lạ lùng. Họ đã phát huy hết khả năng của họ và nhìn lại họ thấy
chính nỗ lực đã đạt được những kết quả phi thường. Ðang khi ấy có nhiều người
phí sức sống không nỗ lực theo khả năng của mình và cứ ngồi than thân trách
phận, kêu ca người khác và dĩ nhiên phàn nàn cả Thiên Chúa nữa. Hạng người này
sẽ không bao giờ thấy khả năng "chuyển núi dời non". Hạng người trên
luôn thấy rõ lòng tin khiến họ làm được nhiều kỳ diệu.
Muốn nói cho hết,
thiết nghĩ nên gợi đến nếp sống của một hạng người thứ ba. Họ làm việc, họ cố
gắng, họ tưởng sức mình có thể dời núi chuyển non. Họ tin vào mình mà không tin
vào Chúa. Các thành quả của họ đạt được chẳng là gì trong một lịch sử chung.
Cuối cùng họ cũng chỉ thấy mất mát. Ðang khi công việc của người tín hữu, luôn
đem lại bình yên thoải mái.
Như vậy lòng tin thật
là cần thiết, không những trong các hoàn cảnh éo le như bài học thứ nhất gợi
lên, mà ngay trong đời sống hằng ngày để làm mọi công việc theo chức năng và ơn
gọi. Ðiều này khiến chúng ta thấy lời Phaolô nhắn nhủ chúng ta qua Timôthê rất
thực tế.
3. Hãy Làm Sống Lại
Ơn Thiên Chúa
Phaolô gọi Timôthê là
"người con chính tông trong đức tin" (Tim 1,2). Hầu chắc vì chính
người đã đưa ông vào đạo. Người còn gọi ông là "người con chí ái", vì
trong số những người gắn liền cuộc đời với người, Timôthê xem ra được người ái
mộ hơn cả. Không những người đem ông theo trong các cuộc hành trình truyền
giáo, mà còn ủy thác cho ông nhiều sứ vụ quan trọng và tế nhị. Người giữ ông ở
bên khi viết nhiều thư gởi các giáo đoàn, dùng ông là thư ký, và khi ở xa nhau
người đã viết cho ông hai thư riêng. Ðó là điều hy hữu. Bức thư thứ hai này, có
lẽ người đã viết từ Rôma, khi bị xiềng xích vì Tin Mừng.
Chắc chắn việc Phaolô
bị tù ngục đã làm "người con chí ái" thật khổ sở. Nhất nữa Timôthê là
con người có sức khỏe mong manh và tính tình nhút nhát, dè dặt. Phải nói rằng
việc Phaolô bị bắt giải sang Rôma làm cho Timôthê rụng rời, chẳng còn muốn hoặc
chẳng còn có thể làm gì nữa. Tông đồ Phaolô là người Cha chí ái phải viết cho
đứa con chính tông trong đức tin của mình bức thư thứ hai này.
Bối cảnh ấy làm cho
chúng ta hiểu rõ lời thư Phaolô khuyên Timôthê hãy làm sống lại ơn Thiên Chúa ban
xuống cho ông qua việc người đặt tay ban sứ vụ tông đồ cho ông. Ơn ấy là Thánh
Thần dũng mạnh để ông sống và truyền bá Tin Mừng. Thế thì vì sao ông lại hổ
thẹn trong hoàn cảnh hiện tại? Dựa vào quyền năng của Thiên Chúa, ông đừng đau
khổ vì xiềng xích của Phaolô nhưng hãy chia sẻ cam khổ với Người. Hãy dựa vào
Thánh Thần mà giữ lấy kho tàng tốt đẹp đức tin đã lãnh nhận và tiếp tục sứ vụ
tông đồ. Như vậy bài thư Phaolô tóm tắt cả hai bài Kinh Thánh trước đây. Ðó là
những lời khuyên ta trong hoàn cảnh khó khăn . Ðừng đánh mất niềm tin; nhưng
hãy dựa vào Thánh Thần dũng mạnh mà tiếp tục sứ vụ và ơn gọi để thấy lòng tin
có sức chuyển núi dời non và con người tín nghĩa luôn được sự sống thật.
Trong cộng đoàn chúng
ta đây, ai không thấy mình nhiều ít cần thêm lòng tin. Chúng ta cần cầu xin như
các tông đồ ngày trước. Nhưng cũng cần nhớ lời thánh Phaolô: Hãy làm sống lại
ơn Thiên Chúa ban khi nhận được đức tin. Ðó là ơn Thánh Thần dũng mạnh để giữ
tín nghĩa trong mọi thử thách và để nhiệt thành tiếp tục ơn gọi và làm mọi công
việc của phận sự cho dù hoàn cảnh có trái nghịch. Ơn Thánh Thần luôn còn được
ban thêm một cách đặc biệt trong thánh lễ, nơi Chúa Giêsu Kitô bày tỏ sức mạnh
phục sinh qua Mầu nhiệm Thập giá. Hãy tin tưởng cử hành thánh lễ hôm nay và mọi
ngày để hằng ngày được thêm ơn Thánh Thần làm sống lại mạnh mẽ niềm tin mà
chúng ta đã lãnh nhận, hầu luôn phấn khởi phấn đấu trong cuộc sống.
(Trích dẫn từ tập
sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)