Chúa Nhật 33 Thường Niên Năm C
Sẽ Ðến Ngày Của Chúa
(Malaki 4,1-2a (theo Vulgata); 3,19-20a (theo HyLạp);
2 Thessalonica 3,7-12; Tin Mừng Luca 21,5-19)
Phúc Âm: Lc 21, 5-19
"Các con cứ bền
đỗ, các con sẽ giữ được linh hồn các con".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có mấy người
trầm trồ về đền thờ được trang hoàng bằng đá tốt và những lễ vật quý, nên Chúa
Giêsu phán rằng: "Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày
không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá". Bấy giờ các
ông hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu
nào mà biết những sự đó sắp xảy đến?" Người phán: "Các con hãy ý tứ
kẻo bị người ta lừa dối. Vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng
rằng: 'Chính ta đây và thời giờ đã gần đến'. Các con chớ đi theo chúng. Khi các
con nghe nói có chiến tranh loạn lạc, các con đừng sợ, vì những sự ấy phải đến
trước đã, nhưng chưa phải là hết đời ngay đâu".
Bấy giờ Người phán
cùng các ông ấy rằng: "Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này
sẽ chống với nước nọ. Sẽ có những cuộc động đất lớn mọi nơi; sẽ có ôn dịch đói
khát, những hiện tượng kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể. Nhưng
trước những điều đó, người ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các
hội đường và ngục tù, điệu các con đến trước mặt các vua chúa quan quyền vì
danh Thầy; các con sẽ có dịp làm chứng. Vậy các con hãy ghi nhớ điều này trong
lòng, là chớ lo trước các con sẽ phải thưa lại thể nào. Vì chính Thầy sẽ ban
cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể
chống lại và bắt bẻ các con. Cha mẹ, anh em, bà con, bạn hữu sẽ nộp các con, và
có kẻ trong các con sẽ bị giết chết. Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh
Thầy. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất. Các con cứ
bền đỗ, các con sẽ giữ được linh hồn các con".
Suy Niệm:
Chúa Nhật 33 Thường
Niên Năm C
Malaki 4,1-2a (theo
Vulgata); 3,19-20a (theo HyLạp); 2 Thessalonica 3,7-12; Tin Mừng Luca 21,5-19
Sẽ có ngày cả thế
giới và vũ trụ này biến đổi. Bao giờ, thế nào và có những dấu hiệu nào báo
trước: đó là những câu hỏi mà luôn luôn người ta muốn biết? Người ta cố vặn vẹo
các bản Kinh Thánh để đưa ra nhiều ý kiến khác nhau. Và các đoạn sách chúng ta
đọc hôm nay cũng đã giải thích, khai thác rất nhiều.
Do đó chúng ta càng
phải thận trọng khi tìm hiểu những bài Kinh Thánh này. Chúng ta sẽ trung thành
và cởi mở đón nhận giáo huấn của Chúa chứ không tìm cách thỏa mãn tính tò mò tự
nhiên về thời tận thế hay về lúc thời cơ biến đổi.
1. Sẽ Ðến Ngày Của
Chúa
Trước hết chúng ta
thường quan niệm tận thế là lúc tất cả thế giới và vũ trụ này đều biến đổi. Ðó
cũng là ngày Ðức Giêsu Kitô trở lại để mở cuộc chung thẩm, chấm dứt nếp sống
trần gian và mở ra đời sống vĩnh cửu. Ngày ấy cũng thường được đồng hóa với
ngày của Thiên Chúa mà các sách Cựu Ước và nhất là các sách tiên tri thường nói
đến. Ít ra chúng ta vẫn coi những điều Cựu Ước viết về ngày của Thiên Chúa như
là những mạc khải đầu tiên và xa xôi nhất về ngày trở lại của Ðức Giêsu, cũng
còn được gọi là ngày thế mạt. Nhưng sự thật không quá đơn sơ như vậy.
Và ngay từ đầu chúng
ta phải có những quan niệm rõ ràng. Nói đúng hơn, chúng ta phải cố gắng hiểu
những từ ngữ trên cho thật đúng kẻo tư tưởng và đức tin đâm ra lộn xộn.
Nói một cách chung,
khi nghe Cựu Ước nói đến ngày của Thiên Chúa thì chúng ta phải đặt mình vào
trong tâm lý của người Do Thái mà tìm hiểu. Chẳng hạn bài sách Malaki hôm nay:
Chúng ta sẽ không hiểu đúng, nếu không đặt nó vào khung cảnh của thời bấy giờ.
Khi ấy vào khoảng năm 450 trước Ðức Giêsu ra đời; và là khoảng 40 năm sau khi
con cái Israel lưu đày ở Babylon trở về. Những người này đang gặp nhiều khó
khăn cả về vật chất và nhất là về tinh thần. Chúa đã không hứa đưa dân lưu đày
trở về một cách vinh quang ư? Người bảo đền thờ sẽ được xây lại một cách huy
hoàng. Sion sẽ bừng sáng dưới ánh quang vinh của Người, khiến dân muôn nước sẽ
đổ về thờ lạy ở Giêrusalem.
Nhưng sự thực, ngày
trở về đâu có hiển hách gì? Chỉ có một nhóm ít người đã được nhờ ơn Hoàng đế Ba
Tư trở lại khôi phục xứ sở. Về đến nơi, toàn "những điều trông thấy mà đau
đớn lòng". Ðền thờ thì đổ nát, đất đai thì dân ngoại đã lấn chiếm... Thấy
lệnh của Hoàng đế cho phép tái thiết thánh đường và cho phép dân lưu đày được
chiếm lại đất đai, đám dân ngoại đâu có vui vẻ gì... Họ làm hết cách để cản
trở. Họ khiến con cái
Người sai Malaki và
các ngôn sứ đến. Họ nói Lời của Người. Và bài sách hôm nay ghi lại những tư
tưởng chính yếu nhất. Trước hết Ngày của Thiên Chúa sẽ đến. Ðừng tưởng mọi sự
sẽ như thế này mãi. Thiên Chúa không bỏ dân Ngài. Sự dữ không thống trị mãi...
Rồi ngày ấy sẽ phừng phừng cháy như một hỏa lò. Hình ảnh này được chọn vì
"tất cả phường kiêu mạn và làm điều phi pháp chỉ là rơm rạ". Và như
vậy Ngày của Thiên Chúa sẽ là lúc Người tiêu diệt, trừng phạt kẻ dữ, "không
để lại cho chúng một rễ hay một cành".
Nhưng hình ảnh hỏa lò
phừng phừng cháy cũng có ý nói về Thiên Chúa. Biết bao lần các sách Cựu Ước
dùng hình ảnh "lửa" đi qua các miếng thịt mà Abraham đã phân ra.
Người hiện ra với Môsê nơi một bụi gai cháy. Người dùng cột lửa cột mây dẫn dân
trong sa mạc. Người lấy lửa thiêu đốt lễ vật của Êli... Thường khi các tác giả
Thánh kinh cũng còn ví cơn thịnh nộ của Chúa như lửa... Do đó ở đây, Malaki
muốn nói tới Ngày của Chúa có khía cạnh trừng phạt tiêu diệt kẻ dữ như lửa đốt
cháy rơm rạ và cành khô. Sự thánh thiện nóng nảy của Người thiêu hủy tội lỗi và
tội nhân như than hồng tẩy sạch môi miệng Isaia.
Nhưng đó chỉ là một
mặt, sửa soạn cho một mặt khác. Ðức Nghĩa của Thiên Chúa, sự thánh thiện của
Người sẽ hiện ra như mặt trời, và nói đúng hơn, như ánh sáng mặt trời vì chính
Thiên Chúa mới là mặt trời. Người tỏa sự thánh thiện của Người như ánh sáng
chiếu trên người công chính và chữa lành họ, tức là cứu họ ra khỏi tình trạng
thua thiệt hiện nay...
Như vậy, những lời Malaki
hôm nay không trực tiếp nói về ngày thế mạt, chung thẩm như chúng ta thường
hiểu là ngày tận thế. Ðó là lời tiên tri về Ngày Chúa viếng thăm cứu độ dân
Người sau những thời gian thử thách nặng nề. Có nhiều ngày trong lịch sử dân
Chúa đã thực hiện quan niệm Ngày của Chúa. Nhưng tất cả những ngày cứu độ ấy
cuối cùng chỉ là hình bóng báo trước Ngày Thiên Chúa cứu độ trong Ðức Giêsu
Kitô... Chính việc Ðức Giêsu đến trong thế gian, giáo huấn và công việc của
Người đã xét xử vì đã phân biệt kẻ tin người không tin, kẻ lành và người dữ. Sự
xét xử này dĩ nhiên chưa toàn diện và quyết liệt vì loài người còn tiếp tục
sinh ra trong thời gian. Khi nào Ðức Kitô trở lại thì sẽ có cuộc chung thẩm vì
không còn có tạo vật mới nữa, nhưng tất cả đều nhìn thấy vinh quang của Người
mà phân ra làm hai: hoặc đi vào luận phạt của "hỏa ngục" hoặc đi vào
thiên đàng là nơi sáng láng rực rỡ.
Do đó lời sách Malaki
và những lời tiên tri khác về "Ngày của Thiên Chúa" cuối cùng vẫn áp
dụng được cho Ngày Ðức Kitô trở lại phán xét kẻ lành người dữ, nhưng một cách
gián tiếp và xa xôi thôi. Trong các sách Tân ước có những lời trực tiếp hơn hay
không?
2. Sẽ Có Ðiềm Báo
Trước
Theo các sách Tin
Mừng - mà tác phẩm của Luca là một - Ðức Giêsu đã nói về thời gian thế mạt vào
những ngày cuối đời sống trần gian của Người. Môn đồ trỏ cho Người thấy, đứng ở
nơi cao nhìn xuống, đền thờ Giêrusalem khi có ánh mặt trời tỏa xuống trông đẹp
biết bao! Ai chối được điều này. Nhưng Ðức Giêsu đã nhìn xa hơn hiện tại. Người
thấy trước ngày mà cơ sở huy hoàng kia sụp đổ đến nỗi không còn hòn đá nào
chồng trên hòn đá nào. Môn đệ hỏi Người bao giờ điều ấy xảy ra? Người tựa vào
câu hỏi để nói đến biến cố vĩ đại hơn nữa, mà việc Giêrusalem sụp đổ chỉ là
hình bóng, cũng như Người đã tựa vào lời khen quang cảnh đền thờ trước mắt để
nói sang định mệnh của nơi thờ phượng này. Do đó, việc tiên báo về số phận đền
thờ là lời mở đầu báo trước thời cánh chung.
Các tác giả Matthêô
và Maccô đã thuật lại nhiều lời tiên báo này. Tựu trung họ đã dùng hình ảnh của
Cựu ước và văn chương Khải huyền thời bấy giờ về Ngày của Thiên Chúa để diễn tả
ngày thế mạt và chung thẩm. Có thể nói họ không có ý kiến mới và hình ảnh mới.
Vẫn là cảnh trời long đất lở, cảnh lửa cháy phừng phừng, trừng phạt kẻ dữ...
thưởng công người lành. Tác giả Luca sẽ có lời lẽ như vậy ở đoạn sau của bài
đọc hôm nay. Và chúng ta đã có đại ý trong bài sách Malaki rồi.
Nhưng chúng ta hãy
chú ý đến lời Luca nói đến cách Chúa tiên báo những điều trước. Người báo sẽ có
các tiên tri giả đến lừa gạt tín hữu; và sẽ có những tin tức về chiến tranh và
nổi loạn. Rồi như chưa rõ đủ, Người còn thêm: Sẽ có dân này chống lại dân kia;
sẽ có động đất, ôn dịch, đói kém và nhiều điều kinh khủng trong trời đất...
"Nhưng chưa phải là cùng tận ngay đâu".
Chớ gì chúng ta biết
chú trọng đến câu kết luận này. Theo Luca, Chúa không dính liền thời gian cùng
tận và những hiện tượng xã hội và thiên nhiên vừa kể. Do đó đừng ai nghĩ chiến
tranh, đói kém, thiên tai... là dấu sắp tận thế. Về ngày giờ ấy chính Con Người
cũng không biết để mạc khải cho ta, thì ta đừng nghĩ có thể khẳng định những
điểm nào chắc chắn sẽ báo trước Ngày Ðức Kitô trở lại... Người sẽ đến bất ngờ
như kẻ trộm.
Có điều chắc chắn là
khi còn ở xa, và rất xa ngày tận cùng, sẽ có bắt đạo. "Người ta sẽ tra tay
trên các ngươi vì Danh Ta". Ý Người muốn nói: do đó các ngươi phải mừng vì
là lúc các người được tỏ hiện như Người đã tuyên chứng cách vinh hiển trước tòa
Philatô và trong cuộc tử nạn. Người biết chúng ta không hoàn toàn như Người,
nên Người an ủi: chính Người sẽ ban lời ăn tiếng nói cho chúng ta ở trước tòa
và không ai cự lại hay kháng lý được với chúng ta.
Lời hứa này, Luca đã
thấy thực hiện nơi Stêphanô và các tông đồ; nên ông đã viết lại một cách vững
vàng. Ðồng thời kinh nghiệm của Hội Thánh thời sơ khai cũng cho Luca thấy Lời
báo trước về những cuộc bắt bớ không mơ hồ tí nào. Thế nên ông đã ghi lại những
lời sau đây một cách cũng hết sức chắc chắn: "Các ngươi sẽ bị nộp do cả
cha mẹ, anh em bà con và bạn hữu; và sẽ bị mọi người ghét vì Danh Ta. Nhưng
(đây là lời an ủi) dù một sợi tóc cũng không rơi mất khỏi đầu các ngươi"!
Chúng ta có thể nghĩ
Luca đã viết lầm câu này. Ở chỗ khác Chúa Giêsu không nói như vậy. Người bảo
chẳng có sợi tóc nào rơi xuống mà không có ý Cha trên trời. Chắc chắn Luca biết
như vậy. Nhưng ở đây người muốn nói: không một đau khổ nào vì Danh Chúa sẽ rơi
mất. Nó sẽ đem lại hạnh phúc. Vì thế chúng ta hãy kiên trì.
Thiết tưởng đọc thấy
tư tưởng của tác giả Luca như thế, còn mấy ai muốn thắc mắc về thời tận cùng
nữa? Phần lớn những lời nói về ngày đó chỉ là hình ảnh. Tư tưởng chính yếu là
Chúa sẽ đến xét xử lành dữ như Malaki đã viết. Còn về các điềm báo trước, cũng
chẳng có dấu hiệu nào trực tiếp. Ðiều thực hơn cả là cho đến ngày ấy, tín hữu
sẽ gặp thử thách và bắt bớ. Số chết vì Chúa cũng sẽ nhiều, nhưng số phận chung
của tất cả là sẽ bị mọi người ghét. Tuy nhiên, ơn Chúa sẽ không thiếu cho những
ai kiên trì và Người bảo đảm sự sống và sự sống lại cho họ. Bổn phận của các
tín hữu chỉ còn là phải phấn đấu. Có khi phải phấn đấu một cách cụ thể như bài
thánh thư hôm nay nói.
3. Chúng Ta Hãy Lao
Ðộng
Nhiều tín hữu ở
Thessalonica tưởng rằng sắp đến Ngày Ðức Giêsu Kitô trở lại. Họ còn được nhiều
kẻ tự coi là tiên tri đến dẫn chứng thêm. Có khi bọn này còn giơ cả những bản
văn bảo rằng của các tông đồ ra làm tài liệu. Thế là nhiều người ở Thessalonica
chểnh mảng mọi việc bổn phận và nhất là việc làm ăn sinh sống... để lấy lẽ
"lo việc phần hồn và việc đạo". Hậu quả là xảy ra tình trạng bất ổn
về tư tưởng, đưa tới sự xáo trộn về đời sống thực tế. Nhiều kẻ không lao động
sản xuất nữa và sống bám... nếu chưa phải là đã có những hành động bất chính.
Thánh Phaolô bảo các tín hữu phải tránh những con người ấy và đừng sống như họ,
nhưng hãy bắt chước chính người.
Khi ở Thessalonica,
Phaolô "đã làm lụng... lao nhọc vất vả ngày đêm... không ăn bám vào
ai". Không phải vì bó buộc, bởi lẽ, công dân Rôma không bó buộc phải lao
động và đã làm việc bàn thờ thì có quyền sống nhờ bàn thờ. Nhưng người đã tự
tay lo lấy miếng cơm manh áo đang khi rất nhiệt thành làm việc tông đồ. Ðể làm
gì? Người nói: để khỏi nên gánh nặng cho ai trong giáo dân, để làm gương cho
mọi người... và ở chỗ khác người nói: để Tin Mừng người rao giảng được sáng giá.
Ðối với người
Thessalonica, nếp sống lao động rõ rệt và vất vả này, đang khi có quyền không
phải làm như vậy, là lý rất mạnh để truyền và khuyên họ phải lao động, phải làm
lấy mà ăn, chứ đừng nhàn cư vi bất thiện, lê la nói hết chuyện này sang chuyện
khác, và toàn những chuyện vô lý, khiến đời sống mất trật tự.
Ðối với chúng ta sống
sau Công đồng Vatican và thêm kinh nghiệm xã hội chủ nghĩa, lời khuyên của
thánh Phaolô phải làm cho hàng tông đồ thấy không những không có gì mâu thuẫn
giữa sinh hoạt mục vụ và lao động sản xuất, mà một nếp sống hòa hợp được hai
sinh hoạt đó còn làm sáng giá thêm Tin Mừng mà chúng ta rao giảng. Riêng với
các tín hữu, lời khuyên lao động để có nếp sống xã hội trật tự tưởng không phải
là không có giá trị hiện đại. Chúng ta cứ suy nghĩ và sẽ thấy quả thật hăng hái
lao động sản xuất cũng là chuẩn bị Ngày Chúa trở lại, cũng là ngày biến đổi cả
thế giới và vũ trụ này.
Thánh lễ nào cũng
nhắc đến thời kỳ cánh chung và thúc giục chúng ta sẵn sàng và chuẩn bị cho thời
kỳ ấy. Và gương mẫu cao cả mà thánh lễ nêu lên để chúng ta bắt chước, không
phải là thánh Phaolô, nhưng là chính Ðức Giêsu trong mầu nhiệm cứu thế. Người
thật là Ngày của Thiên Chúa. Người đã đến để diệt tội và cứu sống. Người thi
hành sự phân xử của Thiên Chúa, khi chính Người đã sống lao động, rao giảng
chân lý, chịu khổ hình thập giá và sống lại. Nếp sống của Người thúc đẩy chúng
ta bắt chước để cuộc đời của chúng ta cũng thể hiện Ngày của Chúa và chuẩn bị
Ngày Chúa Kitô trở lại đem thế giới và vũ trụ này vào trong hạnh phúc vinh
quang muôn đời.
(Trích dẫn từ tập
sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)