ngôi
lỜi đã làm ngưỜi
(Gioan 1,1-18 – Lễ Giáng
Sinh - Ban ngày)
1.- Ngữ cảnh
Mười tám câu đầu tiên của Tin Mừng IV được nhiều học giả coi như là một Lời Tựa long trọng
của tác phẩm: giọng văn của phân đoạn này cũng như các đề tài chính của Tin Mừng được hàm chứa trong đó biện
minh cho nhận định này. Đoi với những tác giả khác, Lời Tựa là như phần Mở của
Tin Mừng, theo nghĩa là một vở
nhạc kịch có một phần mở: các đề tài chính sẽ được nhắc lại trong phần
thân của Tin Mừng (sự sống, ánh sáng,
sự thật, vinh quang, Con, tin, làm con Thiên Chúa, thế gian, bóng tối, v.v.).
Lại có những tác giả khác cho rằng Lời Tựa là một bản văn theo đúng quy luật
viết văn thời Thượng Cổ Hy-lạp và La-tinh nhằm giúp độc giả hiểu các mục tiêu
của bài tường thuật đến sau, nghĩa là cung cấp cho độc giả các phương tiện giúp
họ biết được đối tượng và diễn tiến của bài tường thuật (Zumstein). Cuối cùng,
có một số tác giả cho rằng cc. 1-18 còn hơn là một lời tựa hay
một phần mở nữa; các câu ấy chính là Tin Mừng trong một cái nhìn tổng
hợp và sâu sắc, tất cả phần còn lại chỉ lấy lại sứ điệp mà diễn tả chi tiết
bằng những câu truyện, qua đó ta thấy Ngôi Lời đã đến trong thế gian này và
chia loài người thành hai khối trước mặt Người cách nhiệm mầu.
Tuy
nhiên, cũng có những khác biệt quan trọng giữa Lời Tựa và Tin Mừng. Thể thơ trong cc. 1-5.9-12.14-18 chỉ có ở trong Lời Tựa.
Dung mạo trung tâm của Lời Tựa là “Lời” (logos)
sẽ không bao giờ được nhắc đến nữa trong phần còn lại của TM. Một số từ ngữ quan trọng tập trung trong cc. 14-18, chẳng hạn
“ân sủng” (charis), “sung mãn” (plêrôma)
và “ở trong lều (= cư ngụ)” (skênoun) không thấy xuất hiện ở chỗ nào
khác ngoài Lời Tựa…
Những
điểm tương đồng và dị biệt giữa Lời Tựa và TM
đã khiến các nhà chú giải đi đến ba kiểu nhận định về cách soạn thảo Lời Tựa:
-
Bởi vì có nhiều điểm tương đồng, một số vị cho rằng cùng một tác
giả đã soạn Lời Tựa và Tin Mừng.
-
Do có những khác biệt, những vị khác nghĩ rằng Lời Tựa không phải là công trình
nguyên thủy của tác giả, nhưng là một bài thơ hay là một bài thánh
ca có sẵn đã được cải biên để mở đầu TM.
Tuy nhiên, lập trường này không thể giải thích được vì sao trong bài thơ gốc ấy
lại có quá nhiều từ ngữ chuyên biệt của TM
IV như vậy (ví dụ: sự sống, ánh sáng, bóng tối, làm chứng, thế gian, vinh
quang…).
-
Một số vị cho rằng Lời Tựa là một thánh ca Kitô học truyền thống, có lẽ
đã được sáng tác ra trong cộng đoàn Gioan, và đã được tác giả TM đặc biệt cải biên thành một phần
mở của TM. Ý kiến này được hỗ trợ bởi
các điểm tương đồng về từ vựng và đề tài giữa Lời Tựa và phần còn lại của TM cũng như bởi các thánh ca Kitô học
trong một số thư Phaolô (x. Pl 2,6-11; Cl 1,15-20; 1 Tm 3,16).
Dù thế nào đi nữa, hiện
nay Lời Tựa có đó như một dẫn nhập tuyệt vời vào TM IV. Hầu như chắc chắn là Lời Tựa, cũng như phần Kết của TM, đã được thêm vào sau khi quyển TM đã được viết xong. Như thế, Lời Tựa
có thể được coi như một suy tư vừa để nghiền ngẫm vừa để đánh giá TM, do tác giả và cộng đoàn ngài đã ghi
lại trong quyển TM vừa mới hoàn tất,
đặc biệt về lời công bố của quyển TM
là bản thân Đức Giêsu là Đấng Mêsia và Con Thiên Chúa. Lời Tựa có thể được coi
như “lời chú giải có uy tín và chính lục” cổ nhất về quyển TM IV. Nó cũng cung cấp chìa khóa để chú giải TM IV (Collins). Và như vậy, Lời Tựa chỉ “hoàn toàn hiểu được” đối
với người nào “biết trọn quyển Tin Mừng” (Bultmann). Chúng ta có thể tóm tất cả
các quan điểm trên đây bằng nhận định của Zumstein: “Lời tựa xác định quy chế thần học của truyện Đức
Giêsu trần thế. Truyện này phải được hiểu như là truyện về cuộc nhập thể của Lời
Thiên Chúa, như hành vi yêu thương của Thiên Chúa, cho Logos của Ngài nhập thể để cống hiến cho loài người sự sống viên
mãn. Truyện Đức Giêsu trần thế phải được hiểu như là cử chỉ mạc khải tuyệt
hảo”.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia
thành hai phần:
1) Ngôi Lời Thiên Chúa
là Sự Sống và Ánh sáng (1,1-13):
a) Lời ban sự sống (1,1-5),
b) Gioan là chứng nhân (1,6-8 [15]),
c) Ngôi Lời là ánh sáng thật (1,9-13);
2) Ngôi Lời Thiên Chúa là ân sủng và sự thật (1,14.16-18).
3.- Vài điểm chú giải
-
Lúc khởi đầu (1): Đây là những từ đầu tiên
của sách Sáng thế, nhắm tới không phải là khởi đầu thời gian của thế
giới, nhưng là khởi đầu tuyệt đối (x. St
1,1). Dĩ nhiên, tác giả không thể biết được điều gì ở “lúc khởi đầu”, vì chưa
có gì cả, kể cả loài người. Thật ra Lời Tựa là một lời tuyên xưng niềm tin,
được gửi đến các độc giả để mong chia sẻ.
-
có (1): Động từ ên (was, était) ở thì vị-hoàn (imperfect) diễn tả sự kéo dài: Lời
luôn hiện hữu cách siêu vời và vĩnh cửu.
-
Lời (1): Đối với người Sê-mít, “lời” không
phải chỉ là một âm thanh của tiếng nói, sẽ tan biến đi theo nhịp độ ta
phát ra. Theo họ, một khi lời con người đã được nói ra, thì tồn tại như một sức
mạnh huyền nhiệm, luôn luôn làm việc để tạo ra cái mà lời ấy diễn tả, về mặt
tốt hay xấu. Trong Tân Ước, Đức Giêsu
không bao giờ tự xưng là “Lời” và cũng chưa bao giờ được gọi như thế ngoài
những bản văn Gioan. Nhưng trong các
bản văn Cựu Ước và Tân Ước, có những chuẩn bị cho giáo lý
của TM IV về Ngôi Lời. Chẳng hạn, có
ba trào lưu tư tưởng nhắm nhân cách hóa Đức Khôn Ngoan, Lề Luật và Lời Thiên
Chúa (Cn 8,22t; Hc 24,22t; Is 55,10t; Kn 18,14t), cũng như có khuynh hướng
đồng hóa sự Khôn Ngoan với Lời Thiên Chúa, thậm chí đồng hóa Lề Luật với Lời (Hc 24,1.3.22t). Đàng khác, trong các bản
văn đầu tiên của Tân Ước, Lời có
nghĩa là sứ điệp cứu độ nơi Đức Giêsu Kitô, và thánh Phaolô đã trình bày Đức
Kitô như là Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa và gán cho Lời những phẩm tính tương
tự các phẩm tính của Đức Giêsu Kitô (Cv
8,4; 19,20; 1 Cr 1,24; Pl 2,16).
-
Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa (2):
Giới từ pros cho thấy một sự hướng chiều về một người nào.
Tách khỏi Cha được gọi là Thiên Chúa, Ngôi Lời cũng ở trong một sự hiệp
thông hoàn hảo với Chúa Cha.
-
Nhờ Người, vạn vật được tạo thành
(3): Dịch sát là “nhờ Người, mọi sự đã trở thành (egeneto)”: Đọng từ egeneto
cũng được bản LXX sử dụng trong St
1,3, diễn tả rất rõ việc tạo thành mọi sự “từ không có gì” (a nihilo)
(x. 17,24). Thiên Chúa nhờ trung gian của Ngôi Lời mà tạo thành vạn vật. Cựu Ước đã gán công cuộc tạo dựng thế
giới cho Lời Thiên Chúa (Tv 33,6.9;
147,15-18; Is 40,26; 48,3; Kn 9,1; x. St 1,3) hoặc cho Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa (Cn 8,27-30; Kn 7,12; 8,4; 9,9).
- không có Người, thì chẳng có gì
được tạo thành lại đã được tạo thành
(3): Chỗ cắt giữa c. 3 và c. 4 là một vấn đề được tranh luận rất nhiều.
Bởi vì cả truyền thống thủ bản lẫn ngữ pháp không cho phép vĩnh viễn giải quyết
cuộc tranh luận, thì phải giải quyết bằng chú giải. Nếu ghép c. 3c với c. 4a,
có thể đọc c. 3 theo nhiều cách:
- những gì đã được tạo thành thì là sự sống
nơi Người;
-
những gì đã được tạo thành, trong những
cái đó (tức trong thế gian) có sự
sống;
- những gì đã được tạo thành, trong những cái
đó, Logos là sự sống;
- những gì đã được tạo thành nơi Người, đó là
sự sống.
Tất cả các cách dịch và giải
thích đó, vì gán cho từ ngữ “sự sống” ý nghĩa là sự sống tự nhiên, chung cho
mọi sinh vật, đều vấp phải một vấn nạn căn bản như nhau, đó là chưa nói
đến những khó khăn riêng của mỗi kiểu dịch. Quả thế, cho dù không có kèm theo
tính từ “đời đời/vĩnh cửu”, “sự sống” thường được nói đến trong TM IV luôn luôn là sự sống đời đời
mà Đức Kitô mang đến cho loài người: loài người nhận được sự sống đó chính là
được cứu độ. Đàng khác, ngữ cảnh gần lại cho thấy: mệnh đề kết hợp (coordinate)
tiếp đó lấy lại từ “sự sống” với quán từ[1]:
Tin Mừng bảo chúng ta rằng sự sống vừa nói đó là “ánh sáng cho nhân loại”. Do
đó, chắc chắn sự sống đó phải là sự sống thần linh, lúc đầu có từ muôn đời
trong Ngôi Lời, rồi được Người thông ban cho loài người.
- Câu 3 là câu thơ ở thể biền ngẫu đối nghĩa, nhằm nêu bật rằng Ngôi Lời đóng
vai trò trung gian tuyệt đối trong công trình tạo dựng.
- Ngôi Lời là ánh sáng thật (9): Đây là một biểu tượng quan trọng của TM
IV để nói về vai trò của Ngôi Lời. Tác giả sẽ dùng công thức “ánh sáng cho
trần gian” như một dấu hiệu ở ngay đầu sách, để giúp độc giả nhạy cảm với cặp
biểu tượng ánh sáng/bóng tối mỗi khi nó xuất hiện: khi nghe Đức Giêsu tuyên bố
Người là “ánh sáng cho trần gian” (8,12), độc giả sẽ hiểu chiều kích biểu tượng
của việc chữa cho người mù bẩm sinh thấy, là tin vào Đức Kitô (x. ch. 9). Rồi
độc giả cũng sẽ hiểu tại sao Giuđa bỏ Đức Giêsu ban đêm (13,30), tại sao Maria
Mácđala đến mộ khi trời còn tối (20,1), hoặc tại sao các môn đệ ở ch. 21 đã
đánh cá suốt đêm mà không bắt được gì cho tới khi gặp Đấng Phục Sinh vào buổi
sáng.
- những ai đón nhận, tức là những
ai tin vào danh Người (12): Tin vào ai có
nghĩa là hoàn toàn gắn bó với người ấy, đặt mọi sự dựa vào người ấy, tin tưởng
hoàn toàn vào người ấy. Đây là thái độ căn bản của con người đối với Đức Giêsu.
Có 33 lần, tác giả nói đến “tin vào Đức Giêsu”, chỉ 1 lần “tin vào Thiên
Chúa” (14,1). “Tin vào danh” là một công thức hiếm hơn (1,12; 2,23;
3,18; 1 Ga 5,13) và luôn luôn quy về
Đức Giêsu; công thức này có nghĩa là đặt tất cả sự tin tưởng vào tư cách của
con người được nêu tên.
- Ngôi Lời đã trở nên người phàm (14): Dịch sát là “đã trở thành xác thịt/xác phàm”. Từ ngữ “xác thịt”
(sarx) trong Kinh Thánh không
nhắm đến một phần của con người, hoặc thậm chí thân xác của người ấy, mà
là con người toàn vẹn, nhưng yếu đuối và mỏng giòn mong manh, một hữu
thể phải chịu đau đớn và phải chết.
- Chúng tôi (14.16; x. 21,24): “Chúng tôi” đây là ai?
Vấn đề trở nên phức tạp hơn khi “chúng tôi” ở bên cạnh các đại từ chỉ ngôi
khác, chẳng hạn 1 Ga 1,1-4 (1 Ga 4,2 đưa đến Ga 1,14).
Đàng khác, “chúng tôi” được dùng với sắc thái làm chứng: Ga 21,24 đưa về
19,35 và đưa đến cả 3 Ga 12. Phải chăng đại từ “anh em” (you) của
Ga 15,26-27 là nguồn của từ “chúng tôi” kia? Dường như tất cả những ai
đã nhận được lệnh làm chứng về Chúa Kitô trong Ga 15,26-27 không phải là
những người xuất hiện trong TM IV và trong các Thư với đại từ
“chúng tôi”. Cuối cùng, sau khi đã khảo sát, chúng ta nhận ra ba khả thể: (1)
“Chúng tôi” đây là loài người nói chung; (2) là các tín hữu hay các thành viên
của cộng đoàn; 3) các chứng nhân đứng đầu cộng đoàn, chịu trách nhiệm ít nhiều
về việc soạn thảo TM và các Thư. Thật ra trong mỗi “chúng tôi”,
đều có một cái “tôi” nổi bật, được một nhóm người đi theo. “Chúng tôi” không
phải là “tôi” được nhân lên, nhưng là “tôi” như phát ngôn nhân của nhóm (pluralis
modestiae). “Chúng tôi” bao gồm (inclusive) thì tương đương với “tôi” +
“anh em” = dịch là “chúng ta”. “Chúng tôi” loại trừ (exclusive) thì tương đương
với “tôi” + “họ” = “chúng tôi”. Trong hy ngữ Tân Ước, và nói chung, hy ngữ Kinh
Thánh, không có “chúng tôi cung kính” (pluralis maiestatis). Rất có thể
“chúng tôi” đây là những vị hữu trách của cộng đoàn.
- Chúa Cha (14.18): TM IV dùng từ
“Cha” để gọi Thiên Chúa 122 lần trong quan hệ với Đức Giêsu; chỉ có 3 lần là
“Cha của loài người” (8,41-42 [2x]; 20,17 [1x]). Cũng trong TM này, chỉ Đức Giêsu được gọi là “Con
Thiên Chúa” theo nghĩa riêng, trên một bình diện bình đẳng và đồng phân
với Thiên Chúa; loài người không được gọi là “con”, mà là “tạo thành” của Thiên
Chúa.
-
ân sủng và sự thật (17): Luật thế đôi (hendiadys) để nói là “ân sủng sự thật”
hoặc “sự thật là ân sủng”. Sự song đối giữa c. 17a và 17b không phải là một
sự đối lập, nhưng là một đỉnh điểm
(climax). Hai về này có mục đích giải thích cụm từ “hết ơn này đến ơn khác” (charin anti charitos) của c. 16. Cả Luật
Môsê lẫn mạc khải của Đức Giêsu đều là quà tặng do lòng quảng đại của Thiên
Chúa. Cả hai hình thái mạc khải này đều phát xuất từ một nguồn mạch duy nhất:
Logos Thiên Chúa, Đấng đã soi sáng cho Môsê.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Mỗi tác giả Tin Mừng bắt đầu theo cách của mình. Mt
liên kết với lịch sử cứu độ: ngài tức khắc giới thiệu Đức Giêsu Kitô như là con
cháu vua Đavít và con cháu tổ phụ Abraham (Mt
1,1-17). Mc quy chiếu về công việc rao giảng Tin Mừng hiện tại: Đức
Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa (Mc
1,1-15). Lc bắt đầu tác phẩm theo cách các sử gia cổ thời, với một lời
tựa, cho biết ngài tiến hành có lớp lang (Lc
1,3): ở 1,31, ngài giới thiệu tên Đức Giêsu lần đầu và ở 2,11, ngài cho biết
địa vị của Đức Giêsu. Còn tác giả Gioan, trước khi gọi tên Đức Giêsu
Kitô ở 1,17, thì ở 1,1-13, đã nêu lên những đặc điểm của Đức Giêsu và ở
1,14-18, mô tả hình thức, các nội dung và những điểm liên can đến biến cố Đức
Giêsu đến trần gian.
*
Ngôi Lời Thiên Chúa là Sự Sống và Ánh sáng (1-13)
Đối với tác giả TM IV, Đức Giêsu Kitô là Ngôi Lời.
Bằng danh xưng này, ngài muốn diễn tả ra thực tại thâm sâu nhất của Đức Giêsu,
sự kiện Người nhiệm xuất từ Thiên Chúa và tầm quan trọng của Người đối với loài
người chúng ta. Dân Israel nhận biết vị Thiên Chúa của riêng mình như là Đấng
nói với họ: không phải như vị Thiên Chúa khép kín mình lại và giam mình trong
cõi thinh lặng, vị Thiên Chúa vô danh, xa cách và gây ra sợ hãi, nhưng như vị
Thiên Chúa ngỏ lời với họ và cho họ biết các ý định và ý muốn của Ngài. Ngài đã
nói với Abraham, đã gọi ông và đã ban cho ông lời hứa là muôn dân được chúc
phúc (x. St 12,1-3). Qua trung gian
Môsê, Ngài đã giải phóng dân Ngài khỏi kiếp nô lệ và đã cho biết ý muốn của Ngài
đặc biệt trong “Mười điều răn”. Nhờ các ngôn sứ, Ngài đã can thiệp vào trong
các tình cảnh khác nhau của lịch sử dân Ngài. Ngài đã ngỏ lời với họ, để cho họ
truyền đạt như là lời khuyên nhủ, lời khuyến cáo, lời hứa và lời động viên. Lời
Thiên Chúa ở tại khởi đầu của toàn thể lịch sử. Bằng Lời tạo dựng quyền năng,
Thiên Chúa đã gọi mọi sự ra hiện hữu. Nhờ Lời này, Thiên Chúa giao tiếp với các
tạo thành của Ngài, tự mạc khải ra cho họ, cho họ được thông dự vào tất cả dự
phóng và ý muốn của Ngài về họ. Lời Thiên Chúa đã ban sự hiện hữu và sự sống.
Lời này ngỏ với chúng ta, và kêu gọi chúng ta dấn thân. Lời này vừa là yêu cầu
vừa là lời hứa. Lời này đến từ Thiên Chúa, làm nền tảng và xác định tương quan
giữa Thiên Chúa và loài người.
Đức Giêsu Kitô không chỉ truyền đạt
Lời Chúa như một ngôn sứ, nhưng Người chính là Lời này, Lời đầu
tiên và Lời cuối cùng của Thiên Chúa. Nơi Người, Thiên Chúa tự mạc khải ra vĩnh
viễn và chan hòa, Thiên Chúa nói với chúng ta và cho ta được biết Người. Khi
Người ngỏ lời với chúng ta, thì cũng luôn luôn có một yêu cầu, một đòi
hỏi phải trả lẽ. Các đặc điểm của Lời Thiên Chúa này là thế nào, Người đến từ
những chiều sâu nào, Người có tương quan thế nào với toàn thể tạo thành, tương
quan với Người thì đưa lại điều gì cho loài người chúng ta, tất cả những điểm
này đều được tác giả Ga mô tả trong
1,1-13.
Lời
đang ở nơi Đức Giêsu Kitô đã được chuyển đến cho loài người chúng ta không phải
để vang lên rồi tắt mất, nhưng Lời ấy vĩnh cửu và trường tồn như Thiên Chúa:
“Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là
Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa” (Ga 1,1-2). Tương quan của Ngôi Lời Thiên Chúa với chính Thiên Chúa
được xác định ở đây với ba ý: Ngôi Lời thì vĩnh cửu và vô tạo như Thiên Chúa;
Người sống trong sự hợp nhất trường tồn với Thiên Chúa; Người là Thiên Chúa
theo cùng một cách như Thiên Chúa là Thiên Chúa. Ba điểm này được tóm
trong c. 2, được nhắc lại và khẳng định như là bất biến. Chúng nêu lên bản chất
sâu xa nhất, đặc tính chính yếu và tư cách của Đấng là Ngôi Lời Thiên Chúa: TM IV nói với chúng ta về hành trình,
các lời nói và các hành động của Người trên mặt đất. Trong tất cả những gì Đức
Giêsu làm, ta thấy được điều này: Người không phải là người mang các lời của
Thiên Chúa, mà là chính Lời Thiên Chúa, Lời vững chắc và đáng tin như chính
Thiên Chúa trong thần tính sâu xa và cao cả của Ngài.
Kinh Thánh mở ra với khẳng định: “Lúc
khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất” (St
1,1). Ngược lại, TM IV không mở đầu
bằng lời khẳng định: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo Lời”, nhưng bằng lời
khẳng định: “Lúc khởi đầu đã có [Ngôi] Lời”. Giống như Thiên Chúa, Ngôi Lời
không được tạo thành, nhưng hiện hữu từ muôn đời, sống trước cuộc tạo dựng,
không có khởi đầu và không có kết thúc, vĩnh cửu và không ai trổi vượt hơn.
Ngôi Lời vĩnh cửu này ở bên Thiên Chúa từ muôn đời. Người là một đối tác
hằng sống của Thiên Chúa và liên kết với Thiên Chúa bằng một sự hợp nhất
vĩnh cửu và không có trung gian. Sự hợp nhất này xảy ra ngay trên bình diện
Thiên Chúa; các đối tác bình đẳng với nhau. Ở đây không phải là tương
quan giữa Đấng Tạo Hóa và tạo thành. Ngôi Lời có bản tính Thiên Chúa, phẩm cách
Thiên Chúa, Người có cùng bình diện hiện sinh của Thiên Chúa, Người là Thiên
Chúa, Thiên Chúa thế nào thì Người cũng là như thế. Chỉ khởi đi từ tương quan
của Người với Thiên Chúa, ta mới có thể hiểu được tầm quan trọng và giá trị,
quyền năng và sự viên mãn của Ngôi Lời.
Từ
muôn thuở muôn đời và vô biên trước tương quan Tạo Hóa–tạo thành, có tương quan
Thiên Chúa–Lời Thiên Chúa. Bây giờ tương quan của Ngôi Lời với tạo thành mới
được nói đến: “Nhờ [Ngôi] Lời, vạn vật được tạo thành”. Khẳng định này lại được
nhắc lại và nhấn mạnh: “Và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành”
(1,3). Toàn thể tạo thành nhờ Lời Thiên Chúa mà có (x. 1 Cr 8,6; Cl 1,16; Dt 1,2), lệ thuộc vào Người mà hiện hữu.
Ngôi Lời sống trong sự hợp nhất vĩnh cửu với Thiên Chúa. Người gắn bó với tạo
thành ngay từ thuở ban đầu, nhưng trong bản tính, Người là Lời Thiên Chúa. Do
đó, khi đến trần gian, Người không thiết lập một tương quan mới với tạo
thành, Người không đi vào một xứ sở xa lạ, nhưng Người đến nhà của
Người, đến với sản nghiệp của Người (Ga
1,9-11). Khởi đi từ những tương quan căn bản của Người, Người nhắm tới việc
thông truyền và liên kết, Người là Lời Thiên Chúa quay hướng về tạo thành của
Người.
Tương
quan đặc biệt của Ngôi Lời với loài người được diễn tả bằng sự sống và ánh
sáng. Trong Cựu Ước, có lời khẳng
định: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105) và: “Lạy Chúa, thân con bị
muôn phần khổ nhục, theo lời Ngài, xin cho con được sống” (Tv 119,107). Đặc tính căn bản của Ngôi Lời chắc chắn là sự sống vô
cùng viên mãn, tức không có chút gì là bóng tối sự chết và giới hạn nơi Người.
Như thế, Ngôi Lời có đặc điểm như Thiên Chúa, với lại Người là Thiên Chúa hằng
sống (x. Ga 5,26). Nhờ sự sống viên
mãn không hề cạn kiệt của Người, Ngôi Lời trở thành ánh sáng cho loài người
đang sống trong bóng tối và tiến về sự chết. Ngôi Lời là ánh sáng chiếu soi, ánh
sáng làm cho mọi sự nên rõ ràng và làm cho ta có thể sống và định hướng đời
mình.
Nhưng
đến đây, lần đầu tiên, tác giả cho thấy công trình của Ngôi Lời gặp một sức
mạnh đối nghịch. Bóng tối ngăn cản loài người nhận được ảnh hưởng của ánh sáng.
Toàn thể TM IV nói đến cuộc xung đột
giữa ánh sáng và bóng tối. Nhưng ánh sáng vẫn tỏa rạng và thắng vượt. Cuối
cùng, có lời loan báo chiến thắng, tiên báo kết quả của trận đấu: “Bóng tối đã
không diệt được ánh sáng” (1,5). Ánh sáng mạnh mẽ và mang sự sống tiếp tục
chiếu soi loài người.
Sau
khi nhìn lần đầu tiên đến chứng nhân Gioan, tác giả giải thích lần cuối cùng
biến cố Ngôi Lời đến trong thế gian (1,9-13). Người đến như là ánh sáng thật
soi chiếu mọi người. Tuy nhiên, cách thức đón tiếp khác nhau. Hai lần tác giả
nói rằng Ngôi Lời bị xua trừ. Người đã ở trong thế gian, nhưng thế gian, tuy
vẫn nhờ Người mà hiện hữu, lại không nhận biết Người; tạo thành bị mù lòa và cứ
muốn ở trong tình trạng mù lòa khi ở trước Đấng Tạo nên mình. Từ ngữ “người
nhà” một lần nữa cho thấy thế giới con người là sở hữu của Đấng tạo
thành nó, hoặc Israel là dân của Thiên Chúa (x. Tv 135,4). Người nhà của Người đã muốn đẩy Người ra cửa, chứ không
muốn có Người ở với họ. Thế mà không những Người đã tạo thành họ, Người còn
xuống để đi tìm họ trong thế giới của họ.
Nhưng
Ngôi Lời Thiên Chúa cũng có được tiếp đón. Người ta tiếp đón Người bằng đức
tin, nhờ đó họ trở thành con Thiên Chúa. Tin là một quyết định cá nhân, một thái
độ của ý chí con người. Đối với TM IV,
“tin vào/tin vào danh” là thái độ căn bản mà con người phải có đối với Đức
Giêsu. Theo Ga 3,18 (x. 1 Ga 5,13), danh của Ngôi Lời là “Con
Một Thiên Chúa” (x. Ga 1,14.18). Như
thế, chúng ta đón tiếp Ngôi Lời khi nhận biết Người là Con Một của Thiên Chúa
và hoàn toàn tín thác vào Người.
Tất
cả những ai tin vào Ngôi Lời Thiên Chúa thì được ban cho quyền trở nên con
Thiên Chúa. Tương quan của một người cha với các con có đặc điểm là
người cha truyền thông sự sống cho các con và họ sống một dây liên kết
riêng tư thân tình. Các con của Thiên Chúa là những người có sự sống phát xuất
từ Thiên Chúa và có thể sống hợp nhất với Ngài. Sự sống này hoàn toàn khác với
sự sống trần gian: trong sự sống này, loại trừ một loạt những nhân tố
cho thấy nguồn gốc của sự sống trần gian tự nhiên (Ga 1,13). Được sinh ra lần nữa bởi Thiên Chúa (x. 3,3), chúng ta
trở thành con của Ngài, chúng ta có sự sống đời đời, được thông dự vào chính sự
sống của Ngài. Sự tái sinh này tùy thuộc niềm tin đặt nơi Con Một Thiên Chúa.
* Ngôi Lời Thiên Chúa là ân sủng
và sự thật (14.16-18)
Ngoại
trừ tên của chứng nhân Gioan (1,6), trong phần thứ nhất của Lời Tựa, chúng ta
không gặp bất cứ tên người nào. Sau khi tác giả đã nói nhiều điều về Ngôi Lời
Thiên Chúa, phát sinh các câu hỏi: Người ở trong thế gian như thế nào? Ta tìm ra
Người ở đâu? Ai đã gặp Người? Người có gì mà thông ban cho chúng ta?
Trong
phần thứ hai (1,14-18), các tên người được gom lại với nhau: một nhóm đi
vào sân khấu, với tên gọi “chúng ta/chúng tôi” (1,14.16). Các khẳng định đan
quyện vào nhau. Trước khi khẳng định rằng Ngôi Lời đã làm người (= đã thành xác
phàm) có đầy ân sủng chân lý (1,14), tác giả nói rằng: “Chúng tôi đã được nhìn
thấy vinh quang của Người” (1,14). Và trước khi nói rằng: “Từ nguồn sung mãn
của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác”, ngài nêu bật
chứng tá của Gioan [Tẩy Giả] (1,15). Chứng tá có tầm quan trọng đặc biệt cho
khả năng thấy của nhóm “chúng ta/chúng tôi” (x. 1,29.30.36). Tác giả TM hẳn là đang nhắm đến một kinh
nghiệm phi thường khiến ngài như nghẹt thở, và dường như ngài diễn tả điều này
khi nêu lên chuỗi các khẳng định đan quyện nhau. Kinh nghiệm lớn lao duy nhất,
cuộc gặp gỡ với Ngôi Lời làm người, hẳn là tác giả muốn diễn tả tất cả ngay
trong một lần, trong khi kinh nghiệm ấy chỉ có thể thông tri dần dà,
từng phần một.
Ngôi
Lời như là ánh sáng thế gian đã đến (1,9), điều này được thể hiện trong việc
Người “thành xác phàm”, trong việc Người “làm người”. “Trở thành xác phàm” có
nghĩa là Ngôi Lời Thiên Chúa đã trở thành một con người thật sự, mỏng
giòn và phải chết, và bằng cách đó Người đã đến hiện diện trong thế gian như là
ánh sáng cho loài người. Ngôi Lời vô tạo, luôn ở trong một tương quan
vĩnh cửu và sống động với Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa, nay vẫn không thôi
là Lời Thiên Chúa ấy, lại đồng thời trở thành một con người tất tử.
Trước
khi nêu tên của con người ấy, cũng là Lời Thiên Chúa, là người thật và là Thiên
Chúa thật, tác giả TM IV phác ra các
đặc điểm của sự hiện diện thường trực của Người với loài người. Ngôi Lời không
chỉ đến phớt qua rồi biến mất ngay, nhưng đã sống lâu dài trong và với cộng
đồng loài người: Người đã cư ngụ giữa họ. Tác giả cũng mô tả cuộc gặp gỡ lạ
lùng ngài đã có với Đấng ấy: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người”
(Ga 1,14). Không phải là một con người
đơn lẻ, nhưng là một nhóm đã được gặp Ngôi Lời đã trở thành xác phàm.
Bởi vì ngài nói đến “chúng ta/chúng tôi”, tác giả TM coi mình thuộc về nhóm này. Đây là nhóm các môn đệ; họ đã được
sống hiệp thông trực tiếp với Đức Giêsu và hiểu thực tại đích thật của Người
(x. 2,11; 20,30). Họ đã được thấy “vinh quang của Con Một Chúa Cha” (1,14). Cựu Ước đã nói đến “vinh quang của Thiên
Chúa” vào dịp các cuộc tỏ mình của Thiên Chúa (x. Xh 24,16-17; Ed 1,28).
“Vinh quang” này không phải là bất cứ thứ huy hoàng lộng lẫy nào, nhưng là
nguồn sáng chói lọi trong đó ta trải nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa. Ngôi
Lời Thiên Chúa, nay hiện diện như là con người phải chết và ẩn giấu, trở thành
thấy được cho các môn đệ trong thực tại đích thực của Người. Các môn đệ đã được
sống cuộc tỏ mình cho thấy bản thân thâm sâu của Ngôi Lời, khiến họ nhạn được
ánh sáng (Ga 1,4.9) và hết sức vui
mừng (x. 1 Ga 1,4).
Đến
đây đã rõ là Ngôi Lời chính là Con duy nhất và vô song của Thiên Chúa, mà Chúa
Cha đã cử đến trần gian. Tác giả diễn tả tương quan có một không hai này
nhiều cách: Thiên Chúa hầu như chỉ là “Cha” của Đức Giêsu, và chỉ Đức Giêsu mới
là “Con” của Thiên Chúa.
Ngôi
Lời làm người, Chúa Con được Chúa Cha sai phái đến thế gian, là Đấng “đầy tràn
ân sủng và sự thật” (Ga 1,14). Công
thức này cho biết điều gì đã được ban cho loài người nhờ sự hiện diện của Ngôi
Lời, điều gì các môn đệ đã nhận được khi hiểu rõ ràng bản thân Ngôi Lời (1,16).
Nhờ Đức Giêsu, là chính Sự Thật của/về Thiên Chúa, đã được ban xuống cho chúng
ta như “quà tặng” (= ân sủng), ân sủng
sự thật đã có đó (1,17; x. 14,6). “Ân sủng sự thật” chính là mạc khải về một
thực tại cho đến nay vẫn còn ẩn giấu, nay được ban như một quà tặng, được
ban nhưng-không. Vì Người là “sự thật”, Người cho chúng ta được biết một phương
diện hoàn toàn mới của Thiên Chúa: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (14,9).
Trong thân phận là Con, Người mạc khải về Thiên Chúa như là Cha: ta không thể
biết Đức Giêsu như Con Thiên Chúa mà không đồng thời biết Thiên Chúa như là Cha
của Đức Giêsu. Được biết rõ như thế về Thiên Chúa là một ân sủng, là một
sự chiếu cố nhân ái của Thiên Chúa đối với loài người.
Để
cho thấy đây là một điều mới mẻ, tác giả so sánh với Cựu Ước. Nhờ trung gian Môsê, Lề Luật đã
được ban cho dân Chúa. Lề Luật này là lời Thiên Chúa, dấu chỉ lòng ân cần của
Thiên Chúa, cũng mạc khải ý muốn của Thiên Chúa, xuyên qua các điều răn và các
lời hứa của Thiên Chúa; Lề Luật loan báo điều mà chính Thiên Chúa muốn làm,
điều Ngài sẽ ban cho dân Ngài (x. Ga
1,45; 5,46), đồng thời cho biết điều mà dân Chúa phải làm, để sống phù hợp với
ý muốn của Thiên Chúa. Ngay các điều răn của Thiên Chúa cũng được nhận biết như
là những dấu chỉ về ân sủng của Ngài: xuyên qua các điều răn này, Israel có thể
biết điều gì Thiên Chúa muốn (x. Tv
19; 119).
Nhưng
điều Thiên Chúa chuyển đến cho loài người nhờ trung gian Đức Giêsu còn vượt quá
ân ban trên. Đức Giêsu Kitô không phải là một trung gian theo kiểu Môsê, là
người chỉ truyền đạt điều đã nhận. Nhờ Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã đến trong
thế gian, ân ban là sự thật, là mạc khải về điều cho đến nay còn bị giấu kín,
đã được ban cho ta: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả” (Ga 1,18). Không một ai, kể cả
Môsê, đã được cho gặp trực tiếp và biết đầy đủ về Thiên Chúa. Nay “Con Một vốn
là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho
chúng ta biết” (1,18). Nhiệm vụ chính của Đức Giêsu là loan báo cho chúng ta sự
hiểu biết này. Chính ba tư cách được nêu vừa rồi cho phép Đức Giêsu làm công
việc mạc khải về Chúa Cha.
Trong
ba tư cách này, tác giả nhắc lại những gì Lời Tựa đã nói về ngôi Lời: Đức Giêsu
là Con Một (x. Ga 1,14), Người có một
tương quan hoàn toàn đặc biệt với Thiên Chúa, Người là Thiên Chúa (x.
1,1c). Đây là tương quan giữa những nhân vật ngang hàng nhau, có cùng một bản
tính và đặc điểm như nhau. Tương quan này được sống trong sự hợp nhất thân
tình, tin tưởng (x. 13,23). Cựu Ước
đã biết đến vị Thiên Chúa Tạo Hóa, hoàn toàn cách biệt với các thọ tạo; khi đó,
người ta nhận biết Thiên Chúa chỉ có một, “nhất khối”. Nhờ Đức Giêsu, ngay tại bình
diện Thiên Chúa, có sự hiệp thông, có tương quan tình yêu âu yếm và tin tưởng
giữa Chúa Cha và Chúa Con. Đức Giêsu mang đến một sứ điệp về Thiên Chúa,
mà thật ra Người chính là sứ điệp đó. Người mang đến sứ
điệp này, để những ai tin vào Người như là Con thì được thông dự vào tương quan
của Người với Thiên Chúa, và trở thành con Thiên Chúa (1,12). Đây là điều mới
mẻ tuyệt đối mà Đức Giêsu cho chúng ta biết. Cho đến nay thì đúng là “Thiên
Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả” (1,18); nhưng bây giờ, “ai thấy Thầy là thấy
Chúa Cha” (14,9).
Lời
Tựa có ghi ba tên: Gioan, Môsê và Giêsu. Như thế, các lời khẳng định của Lời
Tựa được liên kết với ba nhân vật lịch sử. Gioan đã đến như chứng nhân của ánh
sáng (Ga 1,7). Nhờ trung gian Môsê, Lề Luật đã được ban
cho dân (1,17). Với Đức Giêsu, ân ban sự thật đã đến trong thế gian. Đây là con
người lịch sử mang tên là Giêsu Nadarét. Khi tác giả nói tên Người ra (1,17),
thì ngài đã nói tất cả những gì làm cho rõ về bản thân Đức Giêsu và ý nghĩa của
tên này. Nhưng tất cả những gì ngài trình bày không phải là hoa trái của suy
diễn, nhưng rút ra từ việc chiêm ngắm và gặp gỡ con người lịch sử này ngày càng
sâu sắc hơn. Lời Tựa tóm tắt những gì đã được ban cho các môn đệ khi họ được
nhìn xem vinh quang của con người ấy.
Chỉ Đức Giêsu mới có một danh
hiệu: Người được gọi là “Kitô”. Như thế, Người được tuyên xưng như là vị vua
cuối cùng đã được Thiên Chúa ban cho dân Israel, Người là “ân sủng sự thạt”.
Đến cuối TM, chính Đức Giêsu sẽ tóm
tắt địa vị và nhiệm vụ của Người trước mặt Philatô: “Chính ngài nói rằng tôi là
vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự
thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga
18,37). Nhiệm vụ thiên sai và vương giả của Đức Giêsu là
mang sự thật đến, là mạc khải vị Thiên Chúa ẩn mình ra trong thực tại của Ngài
là Cha.
+ Kết luận
Ngôi
Lời có tương quan mật thiết với Chúa Cha, nhưng cũng rất gắn bó với loài người,
được sai phái đến trần gian là để làm cho chúng ta có thể thông dự vào sự sống
vĩnh cửu của Thiên Chúa, nhờ chúng ta tin. Đây là chân trời từ đó bung mở tất
cả truyện Giêsu.
Tác
giả TM IV đã chiêm ngắm công trình và
tầm quan trọng của Đức Giêsu theo cách quy thần. Ngôi Lời mang đến sứ điệp về
Thiên Chúa, một sứ điệp cũng chính là bản thân Người. Tất cả những gì
tác giả khẳng định về Ngôi Lời Thiên Chúa đã thành xác phàm, với các từ “ánh
sáng, sự sống, vinh quang, ân sủng, sự thật”, đều trở nên rõ nghĩa trong sứ
điệp về Thiên Chúa. Chúa Con, Đấng mạc khải Thiên Chúa như là Cha và sự hiệp
thông trong Thiên Chúa, vẫn đang soi sáng thế gian, Người xán lạn vinh quang,
Người chính là mạc khải về Thiên Chúa và sự quan tâm đầy tràn ân sủng của Thiên
Chúa và Người ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Người.
5.-
Gợi ý suy niệm
1. Thiên Chúa nói
với chúng ta về tình yêu của Người bằng cách gửi Lời Ngài đến với chúng ta. Lời
Thiên Chúa đã trở thành người phàm giống như chúng ta; Người đã nói một ngôn
ngữ nhân loại, và đã kể cho chúng ta về Cha của Người, nói về cách Người nghĩ
về chúng ta, và các chương trình Người lập ra cho chúng ta. Để biết Chúa Cha,
tất cả những gì chúng ta phải làm là nhìn Chúa Kitô, xem những gì Người làm,
lắng nghe những gì Người nói và dạy, nhìn xem những con người mà Người quan hệ
với, nơi và những người mà Người đến chia sẻ bữa cơm với, những người mà Người
chọn để cộng tác với Người.
2. Khi chiêm ngắm
Lời Thiên Chúa, Đấng diễn tả trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa và mạc khải chính
Thiên Chúa ra cho loài người, để họ tin và được cứu độ, chúng ta cũng được mời
gọi nhìn lại và lượng định kinh nghiệm của chúng ta về khả năng “nói” của loài
người (như là thông giao, diễn tả sự tin tưởng, khuyến khích, trân trọng v.v.)
và về “sự thinh lặng” (do cần thiết, do bị câm, do thiếu quan tâm, do hiềm
khích v.v.).
3. Các Kitô hữu
cũng được thúc bách nhìn lại: chúng ta có chăng khả năng nhận ra được là nhiều
lần chúng ta bị bóng tối vây hãm. Chúng ta phải tự hỏi: Điều gì ngăn cách giữa
tôi và Đấng tạo thành tôi, điều gì đang che phủ Ngài, khiến tôi không nhận ra
Ngài và ngăn cản tôi đi vào thông hiệp sống động với Ngài? Dường như chúng ta
còn đang bị cám dỗ thấy có nhiều điều đáng quan tâm hơn, quan trọng hơn, thuyết
phục hơn và hứa hẹn hơn là việc đón tiếp Thiên Chúa, Đấng tự hiến ban chính
mình! Đàng khác, nếu Chúa Cha yêu thương chúng ta đến như thế, tại sao chúng ta
lại không yêu thương nhau?
4. Ở 1
Ga 2,23, chúng ta đọc: “Ai chối Chúa Con thì cũng không có Chúa Cha; kẻ
tuyên xưng Chúa Con thì cũng có Chúa Cha”. Chúng ta phải hiểu tương quan của
Đức Giêsu với Chúa Cha có ý nghĩa gì cho chúng ta? Dường như cho đến hôm nay,
sự hiểu biết của chúng ta về Thiên Chúa vẫn ở tầm mức Cựu Ước hơn là Tân Ước?
5. Làm thế nào liên kết những gì tác giả TM IV đã nói về Lời Thiên Chúa với Đức
Giêsu Nadarét lịch sử? Hoặc là chúng ta nghĩ đến Lời Thiên Chúa như một nhân
vật siêu vời hoàn toàn không dính dáng gì đến thế giới chúng ta, hoặc chúng ta
nghĩ đến Đức Giêsu như một con người chìm trong những thực tại trần thế
đến mức không còn gì là siêu phàm nữa. Dường như hiện nay đang có một xu
hướng kéo Đức Giêsu “là người thật” xuống trần gian đến mức không còn là “Thiên
Chúa thật” nữa!
Lm
PX Vũ Phan Long, ofm