máng
cỎ và vinh quang thiên quỐc
(Luca 2,1-20 – Giáng
Sinh đêm và rạng đông)
1.- Ngữ cảnh
Trong ch. 1–2 của TM Lc, tức phần mở của TM này, Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả được
đặt song song thành hai cánh:
1) Cánh các cuộc loan
báo (1,5-56):
a) Loan báo về Gioan
(1,5-25);
b) Loan báo về Đức
Giêsu (1,26-38);
2) Cánh các cuộc chào
đời (1,58– 2,52):
a) Gioan sinh ra
(1,58-80);
b) Đức Giêsu sinh ra
(2,1-52).
Bản văn 2,1-20 là phần
đầu trong khối bản văn nói đến việc Đức Giêsu chào đời.
2.- Bố cục
Bản
văn có thể chia thành ba phần:
1)
Hoàn cảnh chào đời của Đức Giêsu (2,1-5);
2)
Cuộc chào đời (2,6-7);
3)
Mạc khải về hài nhi và phản ứng lại với mạc khải (2,8-20):
a) Mạc khải về hài nhi
sơ sinh cho các mục đồng (cc. 8-14),
b) Phản ứng lại mạc
khải (cc. 14-20).
3.- Vài điểm chú giải
- Xêda Âugúttô (1): Gaiô Ốttaviô sinh
ngày 2/9/63 trước CG; khi Giuliô Xêda bị ám sát vào tháng 3/44 thì ông đang ở
bên Tây-ban-nha. Nhờ sự hỗ trợ của ông chú, ông được coi là người thừa kế
chính, rồi vào năm 43, ông được nhận là con nuôi của Giuliô Xêda, với tên là
Gaiô Giuliô Xêda Ốttavianô. Từ ngày 27/11/43 tr CG, Rôma được cai trị bởi một
tam đầu chế là Ốttavianô, Máccô Antôniô và M. Lêpiđô. Vào ngày 1/1/43, Xêda
được nhìn nhận là thần, nên Ốttavianô trở thành divi filius (con thần).
Chế độ tam đầu chấm dứt vào năm 36, và Ốttavianô đã đánh bại Clêôpatra và Máccô
Antôniô tại
- khắp cả thiên hạ (1): Đây là lối nói
thậm xưng để chỉ đế quốc. Trong thực tế, không có sử gia nào ghi lại là có một
cuộc kiểm tra dân số ở mức độ này vào thời Hêrôđê Cả (37-4 tr CG).
- lên thành Bêlem (4): Vì Bêlem cao hơn
mặt biển khoảng 800m, nói “đi lên Bêlem” từ phía bắc Galilê là có thể hiểu
được, Nadarét cao hơn mặt biển khoảng 560m. Đường đi từ Nadarét đến Bêlem dài
khoảng 120 cs.
- thành vua Đavít (4): Cựu Ước nói Đavít
“là con một người Épratha ở Bêlem thuộc Giuđa” (1 Sm 17,12) và là con của “Giesê, người Bêlem” (1 Sm 17,58). Bêlem (x. Tl 17,7-9; 19,1-2; R 1,1-2; 1 Sm 17,12) là
một phố nhỏ khoảng 5 cs về phía tây nam của Giêrusalem; Ga 7,42 gọi là một làng, kômê.
- người đã đính hôn/thành hôn với ông là bà
Maria
(5): Bằng vài từ ngữ rất chính xác, Lc mô tả tình cảnh của Đức Maria: bà
là vợ trinh khiết của Giuse. Bà đang mang thai, và các độc giả biết tại sao
rồi.
- con trai đầu lòng (7): Prôtotokos,
“con trai đầu lòng”, không nhất thiết hàm ý “con đầu lòng” của nhiều con. Điều
tác giả muốn nói ở đây là không có người con nào của Đức Maria đến trước Đức
Giêsu. Lc đã nêu bật sự trinh khiết của Đức Maria (1,27.34), ngài sẽ tỏ
ra rất dè dặt khi đề cập đến truyền thống các anh em của Đức Giêsu (ngài chỉ
nhắc đến ở 8,19-20; Cv 1,14 và tránh
nói đến ở 4,22; Cv 12,17; 15,13;
21,18). Ta biết có những bản văn Do-thái nói đến một phụ nữ đã chết khi
sinh đứa con “đầu lòng” (xem tấm bia mộ của bà Arsinoê, năm 5 tr CG, tại
Leontopolis bên Ai-cập). Ghi nhận như thế, Lc không nhắm đến quyền
trưởng nam để hưởng gia tài thiên sai cho bằng phẩm chất người hiến thánh (x.
2,23; Xh 13,2; 34,19).
- lấy tã bọc con (7): Câu này cho thấy
Đức Maria chăm sóc con như bất cứ người phụ nữ nào ở Paléttina (x. Kn 7,4; Ed 16,4), chứ không muốn nói đến sự nghèo túng hay cuộc chào đời
thấp hèn của Đấng Mêsia.
- máng cỏ (7): Có thể Maria đã sinh con tại một
cái chái sau quán trọ vì ở đấy có chỗ cho lừa qua đêm và có máng đựng cỏ
cho lừa ăn đêm. Cũng có thể đây là một cái ràn. Bản văn Lc không
nói tới một con vật nào. Sau này truyền thống đã dựa theo Is 1,3 mà đưa vào. Còn sinh trong một
cái “hang”? Truyền thống lấy từ Prot. Jas. 18,1; có trong Giustinô, Dial.
78 và Origiênê, Contra Celsum 1,51). Thánh Phanxicô Assisi (1182-1226)
đã tận dụng và phổ biến truyền thống này khi lập ra máng cỏ tại Greccio năm
1223.
- không tìm được chỗ trong nhà trọ (7): dịch sát “không có
chỗ cho ông bà trong nhà trọ”. Hẳn là Maria và Giuse đã đi tìm chỗ trú qua đêm
nơi một cái lán, chung quanh có vách và chỉ có một lối ra vào. Dường như giọng văn có chút chua
xót.
- những người chăn chiên (8): Phải chăng nhắc
đến họ vì họ có liên hệ với Đavít, xưa kia chăn chiên tại Bêlem (1 Sm 16,11; 17,15; 2 Sm 7,8)? Không chắc. Điều rõ hơn, đó là những người chăn chiên là
những người nghèo. Các kinh sư rất nghiêm khắc với người chăn chiên bởi vì do
nghề này, họ xa cách với hội đường và không giữ luật lệ. Họ bị cấm vào Đền Thờ,
không được làm chứng tại tòa án; họ bị coi như là bọn gian dối và trộm cắp. Đây
lại chính là những kẻ “bé mọn” mà Thiên Chúa vui lòng mạc khải mầu nhiệm Người cho
(x. Lc 10,21).
- sứ thần Chúa (9): Đây là một nhân
vật huyền bí trong Cựu Ước (St 16; Tl 13; Xh 3,2–4,17; Tl 6,11-24). Nhưng lần này sứ thần Chúa
tỏ mình ra với một vẻ siêu việt chưa từng có: chung quanh các mục đồng,
vinh quang Chúa chói lòa, đây là vinh quang đã cho Ít-ra-en thấy sự hiện diện
của Đức Chúa (Yhwh) trong Xuất
hành (Xh 16,10…) và vào dịp cung hiến
Đền thờ (1 V 8,11). Cũng giống như trong Cựu Ước, điều được loan báo bởi “sứ
thần Chúa” sau đó lại được gán cho “Chúa” (x. c. 15). Và cuộc thần hiển thường
có kèm theo lời mời tin tưởng (c. 10; x. St
15,1; 21,17; Tl 6,23…).
- Hôm nay (11): Lần đầu tiên trạng từ sêmeron,
“hôm nay”, xuất hiện (x. 4,21; 5,26; 12.28; 13,32.33; 19,5.9; 22,34.61; 23,43.
Từ này được dùng 12 lần trong Lc, 8 lần trong Mt). Từ này báo
trước thời cánh chung đã được khai mạc.
- bình an dưới thế cho loài người Chúa thương (14): Eudokia
là “ý muốn”, và cụm từ anthrôpoi eudokias có nghĩa là “những
người được Thiên Chúa chiếu cố đến/sủng ái”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Biến cố được kể ra ở
đây có những nét tương phản nổi bật. Về cuộc chào đời của Đức Giêsu, bản văn
nói đến bằng những câu ngắn ngủi và đơn giản, khiến độc giả hiểu là tự nó, cuộc
chào đời này không có gì đặc biệt; nó được đặt vào trong dòng lưu chuyển quen
thuộc của thế giới. Chỉ nhờ thiên sứ của Thiên Chúa, hiện ra trong ánh hào
quang chói lọi của thiên quốc, chuyện vừa xảy ra mới được loan báo cho các mục
đồng. Đấng Cứu độ trần gian đã đến thế giới trong những hoàn cảnh tầm thường.
Nét tương phản này thúc đẩy độc giả suy nghĩ sâu xa hơn. Biến cố này đưa người
ta đến chỗ ca ngợi Thiên Chúa.
* Hoàn cảnh chào đời của Đức Giêsu (1-5)
Thế giới vẫn đang đi
theo dòng lưu chuyển bình thường của nó. Ngay ở đầu, hoàng đế Âugúttô được nêu
tên; ông là vị chúa tể thống trị thế giới Địa Trung Hải lúc đó, trong đó có
Paléttina. Ông đã bắt người ta chúc mừng ông như là ông hoàng thái bình, vị cứu
tinh của các cuộc khởi nghĩa và các cuộc nội chiến, cũng như đảm bảo cho có
trật tự và sự thoải mái. Ở đây ông được giới thiệu danh tánh và một công
việc tiêu biểu của một vị quân vương: ông cho kiểm tra dân số, hẳn là để có thể
thu thuế cho thật cao. Việc nhắc đến hoàng đế Xêda Âugúttô hẳn là một có
một vai trò lịch sử, nhưng cũng còn có một vai trò biểu tượng nữa: hoàng
đế Rôma thần thánh (Âugúttô) tương phản với Đấng Kitô Đức Chúa (c. 11); Xêda
Âugúttô điều hành và Đấng Mêsia phải quy phục. Nhưng quyền chúa tể của Xêda
ngoại giáo trên Hài Nhi Mêsia chỉ là tạm thời. Quyền chúa tể này sẽ bị vượt qua
khi Đức Giêsu được tôn vinh sau Phục Sinh (Lc
24,36; x. Cv 2,36). Điều này, ngay
lúc này các thiên thần đã công bố: Người là Đấng Cứu thế duy nhất, Đức Chúa duy
nhất (c. 11), Đấng duy nhất có thể ban hòa bình cho loài người (c. 14).
Maria và Giuse quy phục
cuộc kiểm tra dân số này. Chính việc kê khai tên tuổi đã khiến hai ông bà đi về
thành Bêlem. Tác giả Lc nhấn mạnh rằng thành Bêlem là thành nguyên quán
của vua Đavít và Giuse thuộc về nhà và gia tộc vua Đavít. Như thế chúng ta có
một quy chiếu về lời hứa và niềm chờ mong Đấng Mêsia, có liên hệ với
Bêlem và gia tộc vua Đavít (x. Mk
5,1). Maria đang mang thai do sự can thiệp của Thánh Thần. Ân ban vô song của
Thiên Chúa cũng không tránh cho Đức Maria khỏi những bất trắc của chuyến đi đường,
xa gia đình dòng họ.
* Cuộc chào đời (6-7)
Ngay trong các thực tại
tự nhiên và trong các tương quan giữa con người với nhau, thế giới vẫn đi theo
dòng lưu chuyển của nó. Khi đến lúc sinh con, Maria đã sinh con trai. Bà phải
quy phục tính tất yếu tự nhiên này. Bà không thể chọn thời gian cho mình, cũng
không thể chờ đợi một hoàn cảnh tốt đẹp hơn. Cũng vì thế, chính bà phải
bọc con trong các cái tã và đặt con nằm trong máng cỏ. Đức Giêsu đã khởi sự
cuộc hành trình trần thế trong một cái máng cỏ. Mẹ Người và chính Người
đã không tìm được những con đường đã được nện cho bằng phẳng và những nơi trú
ngụ đăng ký trước. Các ngài là những người nghèo, các ngài không có cao vọng
gì; các ngài phải đi tìm và tìm ra chỗ của các ngài: các ngài bằng lòng với các
sự vật của trần gian.
* Mạc khải và phản ứng (8-20)
Ngược
lại với tình cảnh này, ta thấy có ánh sáng huy hoàng của trời cao và vị sứ thần
của Thiên Chúa xuất hiện. Vị này loan báo cho các mục đồng biết chuyện gì đã
xảy ra trong đêm, trong những hoàn cảnh tưởng là thông thường. Họ đang run rẩy
khiếp sợ, nhưng một niềm vui lớn lao được loan báo cho họ. Sứ thần của
Thiên Chúa luôn luôn là sứ thần của niềm vui (x. 1,14.28). Các mục đồng và toàn
dân có lý để vui mừng: Đấng Cứu thế, Đức Kitô, Đức Chúa, đã sinh ra cho họ.
Người là Đấng Mêsia được trông đợi từ bao đời, Đức Vua muôn đời của
Câu
đáp đầu tiên cho sứ điệp ấy đến từ cơ binh các thiên thần, các ngài ca hát ngợi
khen Thiên Chúa. Các diễn tả ý nghĩa của cuộc chào đời đối với Thiên Chúa và
đối với loài người. Thiên Chúa được tôn vinh bởi cuộc chào đời này: Người đã
tôn vinh chính mình, Người đã làm cho người ta biết Người trong thần tính,
trong tình yêu và trong lòng từ bi thương xót của Người. Biến cố Đấng Cứu thế
đến phải được đón nhận như là một sáng kiến của tình yêu và lòng từ bi
thương xót của Thiên Chúa. Cùng với Đấng Cứu thế, loài người cũng được ban cho
có hòa bình và ơn cứu độ trọn vẹn. Đây là hoà bình được đặt nền tảng trên sự
vui lòng của Thiên Chúa, trên sự hạ cố nhân ái của Người.
Các mục đồng đi theo sự
hướng dẫn của dấu chỉ; họ thấy hài nhi và truyền đạt lại sứ điệp. Tất cả những
ai nghe biết đều ngạc nhiên. Sự kinh ngạc là một khởi đầu tốt. Nhưng nếu
chỉ dừng lại với sự kinh ngạc, người ta không đi xa được. Đến đây phản ứng của
Đức Maria được nêu bật. Bà ghi nhớ và suy niệm mọi sự trong lòng: đây là một
sự suy niệm kéo dài, bởi vì những gì bà thấy thì chưa rõ ràng; bà cần phải
cố gắng tìm hiểu. Còn các mục đồng thì vừa đi về vừa ca ngợi Thiên Chúa về tất
cả những gì đã xảy ra.
+ Kết luận
Những
gì vừa được kể không phải là chuyện trao đổi qua lại trong cách xử thế của loài
người với nhau, cũng không phải là sự cảm động trước một trẻ sơ sinh,
không có một cái nôi cho xứng hợp. Ở đây, chúng ta được loan báo về hành
động từ bi thương xót của Thiên Chúa: Đấng Cứu thế đã giáng sinh, Đức Chúa đã
đang hiện diện. Thiên Chúa đã vĩnh viễn nắm lấy hoàn cảnh của chúng ta trong
tay. Đấng Cứu thế đã đi vào cuộc sống nghèo hèn của chúng ta, nhận lấy thân
phận chúng ta, trong tư cách là một hài nhi được quấn tã. Người đã ở bên
cạnh chúng ta và cùng đi với chúng ta. Hẳn là chúng ta sẽ phải liên tục tự hỏi:
Ơn cứu độ này là loại cứu độ nào đây? Nhưng lòng chúng ta đã chan hòa niềm vui
vì biết rằng Đức Chúa đã có mặt.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Thiên Chúa dùng những nguyên nhân phụ thuộc,
có vẻ tình cờ, để thực hiện các chương trình của Ngài. Một cuộc kiểm tra dân số
lại làm cho các sấm ngôn được thực hiện: Đấng Mêsia chào đời tại Bêlem. Chúa
quan phòng luôn có trong tay toàn thời gian, các nơi chốn và các con người cũng
như các biến cố. Chúa quan phòng tiên liệu mọi sự, nhưng không phải lúc nào
cũng theo như nguyện ước của chúng ta.
2. Trái tim của chúng ta đôi khi cũng bề bộn,
ngổn ngang, như một cái hàng quán Bêlem dịp ấy. Vì thế, chúng ta không
đón được Đức Kitô khi Người đến viếng thăm mà ban ơn cứu độ. Trái tim chúng ta
đã chật cứng với những khoái lạc, với các toan tính cho công việc làm ăn, với
mối lo toan quá đáng cho miếng cơm mang áo, hay có khi chỉ là sự vô tâm lãnh
đạm. Đức Kitô đến như một kẻ quấy rối, và chúng ta không thích.
3. Những người đầu tiên được mời đi tôn kính
Hài Nhi trong máng cỏ là các mục đồng, những kẻ bị người đương thời khinh bỉ,
do họ sống dễ dãi. Ngày hôm nay, tất cả chúng ta cũng đang được mời tiến đến
bên máng cỏ cùng với những người nghèo hèn ấy, bất kể chúng ta thế nào, nhiều
công trạng hay nhiều tội lỗi. Đức Giêsu đã đến cho tất cả mọi người, và đặc
biệt cho những người nghèo nhất và những
người nhỏ bế nhất. Loài người xác tín rằng sự dữ chỉ có thể bị tiêu diệt bởi
tiền bạc, bởi sự lừa dối hay bởi tham nhũng. Tin Mừng của lễ Giáng Sinh đêm nay
cho chúng ta thấy một vì Thiên Chúa chọn sự nghèo khó và yếu đuối, và dạy chúng
ta loại trừ một kiểu suy nghĩ đựa trên quyền lực hoặc tiền bạc.
4. Đức Maria không thụ động chấp nhận tất cả
những gì xảy ra; bà tìm hiểu. Bà không tức khắc cung cấp lời giải thích biến
cố, nhưng đào sâu biến cố cách kiên nhẫn và không áp đảo, ép buộc. Có một thứ
bất bạo động thiêng liêng và tôn giáo, biết tránh việc lược đồ hóa ép uổng, và
để cho các sự việc cứ như thế và chờ đợi được hiểu biết hơn. Bà phải cố gắng
tiếp mà tìm hiểu.
5. Thánh Amêđê (1108-1159), là đan sĩ Xitô và
cũng là giám mục, đã nói trong một bài giảng về Đức Maria: «Mẹ thấy
là Con Thiên Chúa đã được trao cho Mẹ; Mẹ vui mừng khi thấy ơn cứu độ thế giới
được ký thác cho mình. Mẹ nghe Thiên Chúa nói tận đáy lòng Mẹ: ‘Ta đã chọn con
giữa tất cả những gì Ta đã tạo thành; Ta đã chúc phúc cho con giữa mọi người
phụ nữ; Ta đã trao Con Ta vào tay con; Ta đã ký thác Con Một của Ta cho con.
Đừng ngại cho bú mớm Đấng mà con đã sinh ra, hoặc nuôi dưỡng Đấng mà con đã cho
chào đời. Con hãy biết rằng Người không chỉ là Thiên Chúa, mà còn là con của
con. Người là Con của Ta và là con của con, Con của Ta do thần tính, con của
con do nhân tính Người đã nhận lấy nơi con’. Đức Maria đã đáp lại lời mời gọi
này với biết bao tâm tình tha thiết và nhiệt thành, với biết bao khiêm nhường
và tôn kính, với biết bao tình yêu và tận tụy. Loài người không biết được điều
này, nhưng Thiên Chúa biết, vì Người dò thấu tận tâm can (Tv 7,10)… Phúc thay Đấng đã được giao cho nhiệm vụ nuôi dưỡng Đấng
che chở và nuôi nấng mọi sự, bồng bế Đấng nâng đỡ vũ trụ» (Bài giảng thứ 4
về Đức Maria; Pain Cîteaux alt.; x. SC 72, tr. 129t).
Lm PX Vũ
Phan Long, ofm