ĐỨc
Giêsu tẠi đỀn thỜ
(Luca 2,41-52 – Thánh
Gia - C)
1.- Ngữ cảnh
Đặt
vào trong cấu trúc tổng quát của Tin Mừng về thời thơ ấu, truyện Tìm được trẻ
Giêsu trong Đền Thờ bổ sung cho những truyện song song trước đây (chào đời, cắt
bì, tỏ mình của Gioan và Đức Giêsu). Bản văn này có vẻ giống truyện Đức Maria
đi thăm bà Êlisabét (Lc 1,39-56). Tuy
nhiên, trong khi truyện Thăm viếng được liên kết chặt chẽ với những truyện loan
báo các cuộc chào đời (1,5-25; 1,26-38), truyện Tìm lại Đức Giêsu trong Đền Thờ
chỉ được nối kết khá lỏng lẻo. Thật ra, truyện này là một đơn vị độc
lập.
Cho đến nay tác giả Lc
chỉ nói đến Đức Giêsu với những động từ ở thái bị động: cuộc chào đời của Người
được loan báo; Người được đặt nằm trong một máng cỏ; được đưa lên Đền
Thờ; được hai cụ già bồng ẵm trên tay; được công bố và ca ngợi vì ý nghĩa Người
đang mang nơi mình. Đức Giêsu không hành động, Người chỉ là một em bé
yếu đuối, được người khác hành động giúp cho. Bây giờ lần đầu tiên Người tỏ ra
như là nhân vật chính, và tác giả ghi nhận những lời đầu tiên của Người. Lối xử
sự của Người gây ra một hoàn cảnh đau đớn. Câu nói đầu tiên của Người
bắt đầu với một từ “tại sao?”, như để trả lời cho một từ “tại
sao?” của mẹ Người. Trong những lời đầu tiên của Người, Đức Giêsu đã gọi Thiên
Chúa là “Cha Người” và khẳng định rằng đối với Người, liên hệ với Cha quan
trọng hơn tất cả mọi sự khác.
Ta cũng có thể tự hỏi
vì sao tác giả Lc đã ghi lại sự cố
này. Dường như có ba lý do:
a) Lý do 1 (chủ đề): Sự
cố xảy ra tại Đền Thờ (2,46). Thế mà chúng ta biết rằng tác giả Lc quan tâm đến chủ đề Đền Thờ. Tin Mừng đã bắt đầu với việc thiên thần
Gabriel hiện ra với Dacaria trong Đền Thờ. Rồi đến việc cha mẹ dâng Đức Giêsu
trong Đền Thờ. Bằng truyện 2,41-52, tác giả Lc
có thể kết thúc phân đoạn đầu bằng một lời nhắc đến Đền Thờ, cũng như
sau này khi kết thúc Tin Mừng
(24,53). Lời Đức Giêsu nói: “Con có bổn phận ở nhà của Cha con” , nghĩa là ở trong
Đền Thờ, đưa lại cho sự hiện diện của Đức Giêsu trong Đền Thờ chiều kích biểu
tượng, là cuộc trở về nhà Cha Người.
b) Lý do 2 (văn thể): Tác
giả Lc cũng khác với các Tin Mừng khác ở điểm ngài muốn giới
thiệu cho chúng ta một bản “tiểu sử” của Đức Giêsu đúng với các quy tắc của thể
loại tiểu sử (haggada Do Thái và khoa
tiểu sử Hy Lạp). Thể loại này lưu tâm đến thời niên thiếu của nhân vật. Do đó, Lc đã lấp đầy khoảng trống giữa các bài
tường thuật về chào đời và các bài về đời sống công khai bằng truyện này. Nội
dung của truyện được giới thiệu bằng hai câu đóng khung bài tường thuật (2,40
và 2,52): vấn đề là sự tăng trưởng của Đức Giêsu về sự khôn ngoan (sophia).
Vì ngữ cảnh của Tin Mừng về Thời thơ ấu là sự tăng trưởng về khôn ngoan, ta
hiểu vì sao Lc đã chọn một bản
văn minh họa sự khôn ngoan của Đức Giêsu.
c) Lý do 3 (tín lý):
Rất sớm trong Kitô giáo đã xuất hiện một luồng tư tưởng cho rằng Đức
Giêsu là một người như biết bao người khác, chào đời từ cuộc hôn nhân của Maria
và Giuse, nhưng được Thánh Thần ngự xuống trên mình, vào dịp nhận phép rửa, để
trở thành vị ngôn sứ ưu việt (quan niệm của một số Kitô hữu gốc Do Thái, phái
Êbiônít, một số người theo thuyết Ngộ đạo). Có thể quan niệm này xuất
phát từ TM Mc (khởi đầu với phép
rửa). Do đó, Lc tìm cách cho thấy
rằng Đức Giêsu ý thức Người là Con Thiên Chúa ngay khi còn thơ ấu.
2.- Bố cục
Bản
văn có thể chia thành sáu phần:
1) Khung cảnh
(2,41-42);
2) Bị lạc mất Đức Giêsu
(2,43-45);
3) Tìm ra Đức Giêsu (2,46-48);
4) Câu nói của Đức
Giêsu (2,49);
5) Kết luận nguyên thủy
(2,50);
6) Kết luận thứ hai của
Lc (2,51-52).
3.- Vài điểm chú giải
- Lễ Vượt Qua (41): Lễ Vượt Qua được cử hành vào lúc
mặt trời lặn đánh dấu ngày 15 Nisan, là tháng đầu năm theo lịch Babylon/Do Thái
(tháng Ba/Tư; tên cũ là tháng Aviv: x. Đnl
16,1). Dịp này người ta giết chiên Vượt Qua vào chiều ngày 14 Nisan, nướng lên
và ăn trong gia đình vào lúc mặt trời lặn (Lv
23,6). Tất cả những gì có men đều phải loại ra khỏi nhà trước khi giết chiên (Đnl 16,4). Không những hôm ấy, người ta
phải ăn với bánh không men (Xh 12,8),
mà con tiếp tục ăn như thế bảy ngày sau đó (Xh
12,17-20; 23,15; 34,18). Thời gian bảy ngày này được gọi kiểu chuyên môn là “Lễ
Bánh Không Men”. Tuy nhiên, với thời gian, “Lễ Vượt Qua” trở thành tên gọi cho
cả bảy hoặc tám ngày (Đnl 16,1-4; Ed 45,21-25). Dường như trước khi có
- mười hai tuổi (42): Theo Xh 23,17 và Đnl 16,16, mọi người nam ở Paléttina, không phân biệt tuổi tác,
phải ra trình diện trước nhan Đức Chúa vào ba đại lễ trong năm: lễ Bánh Không
Men (tức lễ Vượt Qua), lễ Mùa Gặt và lễ Lều. Nhưng truyền thống Do Thái giáo
chỉ buộc một trẻ em Do Thái tham dự các cử hành phụng tự ở hội đường khi được mười
ba tuổi (em được gọi là bar miswâh,
“con của điều răn”; nghi thức đưa em vào tuổi giữ luật cũng được gọi như thế).
Tuy thế, dường như không có liên hệ gì rõ rệt giữa nghi thức “gia nhập” hội
đường và việc hành hương. Nếu tác giả cố tình ghi lại chi tiết 12 tuổi thì hẳn
không chỉ để chứng tỏ rằng Thánh Gia đạo đức, tuân giữ quá Luật. Có lẽ nên nghĩ
đến một ý hướng biểu tượng. Con số 12 có nghĩa là “toàn thể”, hoàn tất”. Ghi
nhận rằng khi ấy Đức Giêsu được 12 tuồi chính là quy hướng tâm trí về lúc kết
thúc hoạt động của Người nơi trần thế, về cái Ngày mà Người sẽ trở về với Chúa
Cha. Nơi Lc, ý tưởng về “hoàn tất”
này luôn được kết nối với Thương Khó – Phục Sinh (x. 12,50; 18,31; 22,37; 9,31;
22,16; 24,44…) là biến cố được coi như điểm tới và sự hoàn tất sứ mạng trần thế
của Đức Giêsu (9,51). Và chính là lời loan báo ẩn giấu này về cuộc Phục Sinh là
ý hướng đầu tiên của bài tường thuật.
- Xong kỳ lễ (43): dịch sát là “và khi các ngày ấy
đã mãn” (NTT). Như vậy, Giuse và Maria đã ở lại Giêrusalem từ bảy đến tám ngày
mừng lễ Vượt Qua và Bánh Không Men (x. Lv
23,5-6).
- Đang ngồi giữa các bậc thầy (46): Kathezomai
có thể có nghĩa là “ngồi” hay là “ngự”. Các thiếu niên đến muốn học, các thầy
cũng không ngăn cản. Do đó, có thể hiểu chi tiết “ngồi” (kathezomenon)
này cho biết Đức Giêsu muốn học hỏi với các thầy. Tuy nhiên, hẳn là tác giả Lc không chỉ ghi lại một chi tiết
chứng tỏ Đức Giêsu hiếu học. “Ngồi” cũng là cung cách của một vị thầy:
như thế, động từ này hẳn là báo trước việc Đức Giêsu giảng dạy như một vị
thầy (x. 5,3; 19,47–21,38). Ở đây Đức Giêsu đã chứng tỏ một trí thông
minh khiến các vị thầy phải kinh ngạc. Điều này sẽ thường xuyên xảy ra vào thời
gian Đức Giêsu hoạt động công khai. Nói chung, Đức Giêsu xuất hiện trong trong
các TM như nhà chú giải (x. 4,32). Ở
đây, Đức Giêsu tỏ ra một khả năng hiểu Kinh Thánh, một khả năng được
chính các bậc thông luật nhìn nhận. Như vậy, Người là một vị thầy đáng
tin cậy.
Đàng khác, theo Ml 3,3, vào Ngày của Đức Chúa, Đức Chúa
sẽ vào trong Đền Thờ của Ngài và “ngồi/ngự [= hiển trị]” (kathieitai,
LXX) trong tư cách thẩm phán. Ta có thể hướng tới cả nghĩa này, bởi vì toàn
khối Lc 1–2 đã cho thấy bằng những
nét chấm phá kín đáo tính siêu việt mà cuộc sống ẩn dật của trẻ Giêsu mạc khải
ra. Sự kết nối kathezomai với “giữa các bậc thầy” khiến phải nghĩ đến
nghĩa mạnh là “ngự [= hiển trị]” như trong Ml
3,3; với lại bản văn này cũng như bài tường thuật trước có gợi đến lời sấm này.
Như thế, về phương diện thể lý, cho dù Đức Giêsu có ngồi bên chân các thầy
thông luật, như bất cứ em bé nào, Người vẫn là tác nhân chính mà toàn cảnh phải
xoay quanh. Một cách mầu nhiệm, Người đã là Con Thiên Chúa “ngự trong Đền Thờ
Người”, theo lời sấm Ml 3,3.
- kinh ngạc về trí thông minh và những lời đối
đáp của cậu (47): Đây là một câu được viết theo “phép thế đôi” (hendiadys), có nghĩa là: “các lời đối đáp thông minh của cậu”.
- con có bổn phận (49): Dịch sát là “cần
thiết (dei) là con ở nhà của Cha con”. Từ dei không chỉ diễn tả
một sự cần thiết tổng quát, nhưng là điều nằm trong chương trình cứu độ
của Thiên Chúa có liên can đến Đức Giêsu. Từ ngữ này được dùng 7 lần trong TM Lc, luôn được kết nối với cuộc Thương
Khó như cách hoàn tất các sấm ngôn (2,49; 13,33; 17,25; 22,37; 24,7; 24,26;
24,44).
- ở nhà của Cha con (49): Câu en tois
tou patros mou cũng có thể dịch là “(can dự đến) các công việc của Cha con”
hoặc “ở giữa những người thuộc về Cha con”. Dịch là “ở nhà của Cha con” thì
được hỗ trợ bởi các bản văn như St
41,51; Et 7,9; G 18,19 và một số bản văn ngoài Kinh Thánh. Trên môi miệng
của một em bé, ý nghĩa cụ thể này dường như hợp lý hơn; đàng khác, Đền
Thờ Giêrusalem được gián tiếp coi là nhà Thiên Chúa ở Lc 19,46. Với câu này, cũng rõ ràng là Đức Giêsu coi Thiên Chúa là
Cha trên trời của Người.
- Nhưng ông bà không hiểu (50): Hơn ai hết, hai
ông bà biết nguồn gốc siêu phàm của con mình. Nhưng ông bà không hiểu ngay được
là Người nói về Cha Người trên trời theo nghĩa xác thực nhất. Nhất là ông bà
không thể đoán ra được những gì nằm dưới lời nói của con trẻ: một tương
lai mà ông bà hoàn toàn không thể nắm bắt được. Nếu không giải thích như thế,
chúng ta sẽ khiến Lc mâu thuẫn, bởi
lẽ Đức Maria đã biết tư cách Con Thiên Chúa của Đức Giêsu vào ngày Truyền Tin.
Trong Lc, đề tài “không hiểu” (9,45;
18,34 và 24,25) luôn liên hệ đến các lời Đức Giêsu nói cách huyền bí về cuộc Thương Khó của
Người. Vậy sự không hiểu của Maria ở đây không do lỗi Mẹ, nhưng do chỗ lời Đức
Kitô loan báo về Thương Khó phải bị che giấu với những người được loan báo. Họ
chỉ hiểu sau khi các lời này được ứng nghiệm.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Bằng câu truyện dâng
trẻ Giêsu vào Đền Thờ, tác giả Lc cho
thấy Đức Chúa đã trở lại theo các lời sấm Cựu Ước mà chiếm lấy Đền Thờ của
Người. Bằng câu truyện hôm nay, tác giả cho thấy Người “ngự trị” trong Đền Thờ.
Tuy nhiên các ý nghĩa này chìm dưới những truyện rất tầm thường trong đời thường.
Đức Giêsu ở lại
Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Người ở lại Đền Thờ, nghe các cuộc
đối thoại của các vị thầy, đặt câu hỏi và làm người ta kinh ngạc vì sự khôn
ngoan trong các câu trả lời của Người. Ở tuổi 12, khi “ngồi giữa các bậc thầy”,
Người đã tự loan báo mình như là người sau này sẽ giảng dạy với uy quyền trong
toàn xứ sở và ngay trong Đền Thờ (19,47–21,38). Nhưng Người cũng đang sống tư
cách là “Đức Chúa hiển ngự” trong Đền Thánh của Người.
Trong khi đó, Maria và
Giuse đang trên đường về Nadarét. Sau một ngày đàng, các ngài mới nhận
ra là Đức Giêsu không có ở đây, các ngài rất lo lắng. Các ngài phải mất “ba
ngày” mới tìm ra Đức Giêsu: ba ngày là khoảng thời gian đi từ cái chết đến cuộc
sống lại của Đức Giêsu (“vào ngày thứ ba”); chính Đức Giêsu diễn tả điều đó khi
nói là “cần thiết phải”, một công thức được Lc
gắn liền với cuộc Thương Khó như sự hoàn tất các sấm ngôn. Khi tìm ra Người, Maria
đã bộc phát nói lên một câu hỏi mà cũng là một lời than thở: “Này
con, tại sao con làm thế? Này cha con và mẹ phải đau khổ tìm con!”. Đây là một
phản ứng bộc phát của một người mẹ đang phải đau khổ và cho biết là bà đã
phải đau khổ đến độ nào. Maria ngỏ lời với Đức Giêsu trong tư cách là con. Bà
chưa bao giờ thấy và chờ đợi là con có một hành vi như thế. Đức Giêsu, trong
tư cách Con Thiên Chúa, hoàn toàn độc lập với mọi người. Sự độc lập này được
diễn tả qua thế tương phản giữa từ ngữ “cha con” trên môi miệng Maria và “Cha
Con” trên môi miệng Đức Giêsu.
Câu trả lời của Đức
Giêsu cũng gây ngạc nhiên như lối xử sự của Người vậy: “Thì tại sao tìm con?
Lại còn không biết là con phải ở nơi nhà Cha con sao?” (NTT). Đức Giêsu đã gọi Thiên
Chúa là “Cha Người”. Cho đến nay, trong Tin
Mừng, không có một ai gọi Thiên Chúa như thế cả. Maria đã ngỏ lời với
Thiên Chúa như là “Đức Chúa và Thiên Chúa” (1,46t); Dacaria gọi Thiên Chúa là
“Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en” (1,68); Simêôn thưa với Thiên Chúa là “Đức
Chúa” (2,29). Cả sau này Đức Giêsu cũng sẽ gọi Thiên Chúa là “Cha” (10,21;
22,42) và sẽ dạy các môn đệ thưa với Thiên Chúa như thưa với một người
“Cha”. Nhưng thiên thần đã loan báo về Đức Giêsu như là Con Đấng Tối Cao” (1,32), Con Thiên
Chúa (1,35). Người ở trong một quan hệ hoàn toàn đặc biệt với Thiên
Chúa: Thiên Chúa là Cha Người và Người là Con Thiên Chúa. Hành động đầu tiên
của Người mà tác giả ghi nhận là một hành động nhằm diễn tả bí mật thâm
sâu đó trong cuộc đời Người. Người biết Người là Con Thiên Chúa và nhất là
Người biết rằng Người được liên kết với ý muốn của Thiên Chúa. Trong tư cách là
Con Thiên Chúa và trong quan hệ hết sức chặt chẽ với Thiên Chúa, được biểu lộ
ra nơi sự vâng lời của Người với ý muốn của Chúa Cha, Người sẽ đi theo đường
lối của Chúa Cha.
Tác giả ghi rằng Maria
và Giuse không hiểu các lời ấy. Những lời Đức Giêsu nói đây là một câu
nói huyền bí, chẳng giải thích gì cả, cũng chẳng phải để biện minh cho cách xử
sự của Người. Những lời ấy chỉ mời Maria và Giuse vượt lên trên bình diện của
những lo toan đời thường để gặp bình diện của Thiên Chúa, là nơi mà Người vẫn
ở. Ngay cả hôm nay nữa cũng không dễ gì mà hiểu các lời ấy, không những trong
các từ ngữ mà cả trong ý nghĩa. Điều này thúc đẩy chúng ta đặt ra các câu hỏi:
Phải chăng Maria và Giuse không được đi tìm Người? Làm thế nào các ngài có thể
hiểu được rằng Thiên Chúa muốn rằng Người phải ở lại trong Đền Thờ? Phải chăng
Thiên Chúa lại không muốn điều này được thông tri cho các ngài? Phải chăng ý
muốn của Thiên Chúa là cứ bỏ mặc các ngài ba ngày trong tình trạng lưỡng lự và
để các ngài phải đi lòng vòng mà tìm Đức Giêsu? Không dễ gì mà trả lời các câu
hỏi như thế. Ý nghĩa của biến cố này phải được tìm ra trong chiều hướng này:
Maria và Giuse phải trải nghiệm một cách hết sức sâu xa, đau đớn và
không thể quên được rằng Đức Giêsu quy phục một quyền bính cao hơn.
Tương quan đặc biệt của Đức Giêsu với Thiên Chúa đưa Đức Giêsu đến một lối
xử sự có vẻ cứng cỏi không sao hiểu được và có một sự chia cắt đau đớn,
do chỗ nó không tương ứng với các chờ đợi của cha mẹ Người. Đức Giêsu sẽ đi
theo con đường của Người, con đường đã được Chúa Cha vạch ra từ trước rồi. Kể
cả Maria cũng phải chấp nhận con đường ấy như thế. Kể cả bà cũng không được
mong là biết ngay mọi sự cách rõ ràng và được khai mở ngay vào mọi sự.
Bà phải làm gì khi bà
không hiểu? “Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (2,51).
Ghi nhớ điều ấy và chờ đợi, tôn trọng điều ấy và kiên nhẫn, thái độ này là một
hình thái đức tin, một hình thái tin tưởng vào Đức Giêsu và vào
Thiên Chúa.
+ Kết luận
Sự cố này, được tác giả Lc kể trong khung cảnh những bước khởi
đầu của Đức Giêsu là sự cố duy nhất qua đó ta không ghi nhận được các nét vui
tươi hân hoan. Con trẻ, đã được đón tiếp với biết bao niềm vui và lời ca ngợi
Thiên Chúa, sẽ đi theo con đường vâng phục đối với Chúa Cha. Niềm vui và lời ca
ngợi vẫn có giá trị và ngày càng nhận được nền tảng vững chắc và lý hữu vững
vàng hơn. Ở đây ta thấy Đấng Cứu thế, Đức Kitô, Đức Chúa, ơn cứu độ của
5.- Gợi ý suy niệm
1. Ngay từ thuở niên thiếu, Đức Giêsu đã ý thức
rằng Người sẽ phải trở về nhà Cha Người trên trời bằng một cái chết dữ
dội, đã được Kinh Thánh tiên báo (Is
53; Tv 22; Tv 69…) và, vẫn theo Kinh Thánh (Hs 6,2; 2 V 20,5), người
ta chỉ gặp lại Người (đang sống) vào ngày thứ ba. Truyện này cho thấy Người
muốn cho Maria và Giuse sống cách biểu tượng mầu nhiệm Thương Khó – Phục Sinh,
trước khi sống thực sự mầu nhiệm này. Thật ra mọi sự cố trong cuộc đời Đức
Giêsu đều nói về mầu nhiệm trung tâm này. Chúng ta được mời gọi nhận biết rằng
các biến cố thông thường của đời ta chỉ có ý nghĩa khi chúng giúp chúng ta sống
mầu nhiệm Phục Sinh (Vượt Qua), nghĩa là đi từ cuộc sống này mà vào sự sống của
chính Thiên Chúa.
2. Như Đức Maria đã hiểu, các cha mẹ hôm nay
cũng cần phải hiểu: họ không bao giờ được chống lại ơn gọi của con cái họ, khi
chúng đã nhận ra (ơn gọi linh mục, tu sĩ, hoặc ơn gọi lập gia đình). Muốn giữ
con cái lại cho mình bằng mọi giá là một hình thái ích kỷ không tương
hợp với tình yêu chân chính mà các cha mẹ phải có đối với con cái. Tuy nhiên,
cần phải nhấn mạnh lại: đi theo ơn gọi phải là sống một sự vâng phục đối
với Đấng Cao Cả, chứ không phải là một sự đào thoát để tránh một quyền
bính. Đức Giêsu vâng lời Chúa Cha, nhưng Người cũng vâng lời cha mẹ trần
thế.
3. Maria và Giuse bị lạc Đức Giêsu, không do
lỗi các ngài. Nhưng các ngài vẫn đi tìm vì không thể sống thiếu Đức Giêsu. Khi
người ta cảm thấy mình khô khan, sầu khổ thiêng liêng, không do lỗi mình, sự
ngờ vực, bóng tối hoàn toàn, thì phải xem có phải do lỗi mình không, hay là do
Thiên Chúa muốn đào luyện chúng ta (x. Lc
24,28). Cứ đi tìm Người cho đến khi tìm ra Người.
4. Điều ta không hiểu, ta có thể phớt lờ đi
hoặc tìm cách quên đi. Ta có thể tuyên bố rằng điều ấy chẳng có nghĩa gì và
triệt để từ chối nó. Ngược lại, Đức Maria ghi giữ điều ấy và làm cho nó thành
lực thúc đẩy bà kiên trì suy nghĩ (x. 2,19). Thật ra một điều gì đó có
thể không nói cho tôi biết mọi sự vào lúc này. Tôi cũng chẳng có thể tự phụ cho
rằng vào mọi lúc tôi hiểu tất cả những gì có một ý nghĩa. Mức độ hiểu
biết giới hạn không phải là một lý do để loại bỏ hoặc xua trừ một điều
gì đó.
Lm PX Vũ
Phan Long, ofm