CHÚA NHẬT II PHỤC SINH
ABC
Cv 5,12-16 ; Kh 1,9-11a.12-13.17-19 ; Ga
20,19-31
TRUYỀN ĐẠT ĐỨC TIN
TRONG THẾ GIỚI HÔM NAY
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 20,19-31
(19) Vào chiều ngày
ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng
kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông
và nói: “Bình an cho anh em!” (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay
và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) người lại nói với các ông: “Bình
an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. (22) Nói
xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh
Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ
tội ai, thì người ấy bị cầm giữ”. (24) Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là
Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. (25) Các môn đệ khác
nói với ông: “chúng tôi đã được thấy Chúa!” Ông Tô-ma đáp: “Nếu tôi
không thấy dấu đinh ở tay Người. Nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh
và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. (26) Tám
ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma
ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa
các ông và nói: “Bình an cho anh em”. (27) Rồi Người bảo Ông Tô-ma:
“Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào
cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. (28) Ông Tô-ma thưa
Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (29) Đức Giêsu bảo:
“Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà
tin!” (30) Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt
các môn đệ. Nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này.
(31) Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức
Giê-su là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống
nhờ Danh Người.
2. Ý CHÍNH:
Bài
Tin mừng thuật lại hai lần Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra với các môn
đệ để củng cố niềm tin của các ông như sau: Lần thứ nhất (c 19-25):
vào buổi chiều sau khi sống lại, Chúa Phục Sinh đã hiện đến đứng
giữa các môn đệ đang hội họp mà không có
Tô-ma. Người cho các ông xem các vết thương nơi bàn tay và cạnh sườn để
chứng minh Người đã sống lại sau cuộc tử nạn, rồi thổi hơi ban Thánh
Thần và trao quyền tha tội cho các ông. Lần thứ hai (c 24-29): Tám ngày
sau, Chúa Giê-su lại hiện ra với các môn đệ và có Tô-ma. Người đặc biệt
đáp ứng các đòi hỏi của ông. Rồi khi ông đã đạt đến đức tin, thì
Người dạy: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không
thấy mà tin!”.
3. CHÚ THÍCH:
- C 19-20: + Ngày thứ nhất trong tuần: Ngày nay,
Giáo Hội đã chọn Ngày Thứ Nhất trong tuần để mừng mầu nhiệm Chúa
Phục Sinh và gọi là Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. Đây là ngày lễ
nghỉ, thay thế cho Thứ Bảy (Sa-bát) của Do Thái Giáo. + Đức
Giê-su đến: Người hiện đến trong lúc phòng đang đóng kín. Điều
này cho thấy thân xác của Người sau phục sinh có đặc tính thiêng liêng
siêu việt, có khả năng hiện diện khắp nơi. + Bình an cho anh em!
Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa: Đức Ki-tô Phục Sinh đem
lại sự bình an (x. Ga 20,19.21) và niềm vui (x Ga 20,20) cho các môn đệ
(x Ga 14,27). + Người cho các ông xem tay và cạnh sườn: Qua
đó, Người chứng tỏ Người chính là Đấng đã từng bị đóng đinh thập
giá trước đó (x. Ga 19,18), và bị lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn (x. Ga
19,34). Như vậy có sự liên kết mật thiết giữa hai mầu nhiệm Tử Nạn
và Phục Sinh.
-
C 21-23 + Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em: Tông
đồ nghĩa là “được sai đi”. Sứ mạng này xuất phát từ Chúa Cha truyền
cho Đức Giê-su, và giờ đây đến lượt Đức Giê-su Phục Sinh lại truyền cho
các môn đệ và tất cả mọi tín hữu. + Người thổi hơi vào các
ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”: Theo Kinh Thánh,
hơi thở chính là sự sống. Như xưa, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào
con người A-đam và ban sự sống cho ông (x. St 2,7), thì nay, Đức Giê-su
Phục Sinh cũng thổi Thần Khí cho các môn đệ. Rồi đến lượt các môn
đệ lại sẽ ban sự sống thiêng liêng ấy cho các tín hữu qua các bí
tích. + “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm
giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”: Đức Giê-su được Gio-an Tẩy
Giả giới thiệu là Con Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần
gian (Ga 1,29). Khi chữa lành một người bại liệt, Đức Giê-su đã tuyên
bố có quyền tha tội (x. Mt 9,6). Trong Tin Mừng hôm nay, Người còn
thiết lập bí tích giải tội, để ban quyền tha tội cho các tông đồ
bằng việc thông ban Thánh Thần cho các ông. Từ đây các giám mục kế
vị các tông đồ sẽ tiếp tục thông ban quyền tha tội cho các linh mục
là những cộng sự viên của các ngài.
-
C 24-25: + Một người trong Nhóm Mười Hai tên là Tô-ma, cũng gọi
là Đi-đy-mô: Tô-ma là một trong Mười Hai Tông đồ (x. Mt 10,3).
Biệt danh là “Sinh Đôi”. Tính tình bộc trực và can đảm (x. Ga 11,16).
Ông ưa nêu ra thắc mắc khi Đức Giê-su giảng để được Người dạy cho hiểu rõ
hơn (x.Ga 14,5). + Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người...: Tô-ma
đòi được “mắt thấy tay sờ”, nghĩa là đòi một đức tin khả giác
giống như một nhà khoa học thực nghiệm (x. Ga 20,25). + “... thì
tôi chẳng có tin”: Nhiều môn đệ khác cũng cứng tin như thế. Tin
Mừng Nhất Lãm đã nói tới sự cứng tin của các ông như sau: “Nhưng có
mấy ông vẫn hoài nghi” (Mt 28,17); “Người khiển trách các ông không tin
và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy
Người sau khi Người trỗi dậy” (Mc 16,14) ; hoặc Chúa phán: “Sao anh em
lại hoảng hốt ? Sao còn ngờ vực trong lòng ?” (Lc 24,38)
-
C 26-27: + “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy”.
Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy: Đức Giê-su đã
thoả mãn những đòi hỏi của Tô-ma. + Đừng cứng lòng nữa, nhưng
hãy tin: Tuy khiển trách tội cứng lòng của Tô-ma, nhưng Đức
Giê-su cũng thông cảm và chỉ mời gọi ông hãy bỏ đi sự cứng lòng để
tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của Người.
-
C 28-29: + Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !”: Tô-ma
là môn đệ cuối cùng tin Đức Giê-su sống lại, nhưng lại là người đầu
tiên tuyên xưng nội dung đức tin đầy đủ nhất về Đức Giê-su: Người vừa
là Chúa (Đấng Mê-si-a), vừa là Con Thiên Chúa (x Mt 16,16). + Phúc
thay những người không thấy mà tin”: Qua câu này, Chúa Giê-su
muốn nói rằng: Từ nay trở đi, đức tin vào mầu nhiệm Phục Sinh sẽ
không được dựa trên kinh nghiệm khả giác về các lần hiện ra nữa,
nhưng sẽ dựa trên lời chứng của các tông đồ (x. Ga 19,35). Sau này các
ông còn sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho đức tin vào mầu nhiệm
Phục Sinh này nữa.
4. HỎI ĐÁP:
HỎI 1) Thân xác Chúa
Giê-su sau phục sinh có phải là thân xác đã chịu khổ nạn trước đó
không?
ĐÁP: Thân xác Chúa Giê-su sau khi phục sinh cũng chính là
thân xác đã từng trải qua cuộc khổ nạn. Trong Tin mừng hôm nay Chúa
Giê-su đã chứng minh mầu nhiệm Phục Sinh gắn liền với cuộc Tử Nạn
bằng cách: “Cho các môn đệ xem các vết thương ở hai bàn tay và cạnh
sườn Người” (c.20). Cho sờ vào Người (x. Lc 24,36-40), và Người còn ăn
một khúc cá nướng trước mặt các ông (x. Lc 24,41-43) để chứng minh
Người thực đang sống chứ không phải chỉ là hồn ma.
Tuy
nhiên thân xác Chúa Giê-su sau khi phục sinh lại có những đặc tính
khác thường như: Đi xuyên qua tường mà vào nhà Tiệc ly đang khi các
cửa đều đóng kín vì sợ người Do thái (x. Ga 20,19). Khuôn mặt của
Người sau phục sinh biến đổi khác trước khiến bà Ma-ri-a gặp Người
mà lầm tưởng là người làm vườn (x. Ga 20.14-15), khiến hai môn đệ làng
Em-mau không nhận ra Người trong suốt chặng đường dài Người đồng hành và
giải thích Kinh thánh cho họ (x. Lc 24,16). Thân xác Người có đặc tính
siêu việt: Dù không có mặt tại chỗ mà vẫn nghe được những đòi hỏi của
Tô-ma (x. Ga 20,25).
HỎI 2) Hai lần Chúa
Giê-su Phục Sinh hiện ra với các môn đệ cách nhau một tuần giống và khác nhau
thế nào ?
ĐÁP: Về thời điểm: Cả hai
lần Chúa Phục Sinh hiện ra với cộng đòan môn đệ tại nhà Tiệc Ly đều vào buổi chiều
Ngày thứ Nhất trong tuần. Từ đây Ngày thứ Nhất trở thành Ngày của Chúa (Chúa Nhật)
thay thế cho Ngày Hưu Lễ (Sa-bát) của đạo Do thái. Về sĩ số hiện diện: Lần thứ
nhất sĩ số các môn đệ hiện diện là 10 vị do thiếu Tô-ma và lần thứ hai sĩ số đủ
11 vị. Về lời chào: Trong cả hai lần Chúa Phục Sinh đều chào các môn đệ bằng một
công thức: “Bình an cho anh em !”.
HỎI 3) Trong lần hiện ra thứ hai với các Tông
đồ và có Tô-ma ở đó. Chúa Giê-su đã ra lệnh cho Tô-ma sờ vào các
vết thương ở tay và cạnh sườn Người. Vậy Tô-ma có làm như vậy không?
Đáp: Tô-ma tượng
trưng cho những người cứng tin, chỉ tin Chúa sống lại dựa vào cảm
nghiệm và sự xét đoán theo lương tri của mình, chứ không dựa trên
người khác. Nhưng trong lần này, sau khi được gặp Chúa Phục Sinh và được nghe
Người ra lệnh xỏ ngón tay vào lỗ đinh ở bàn tay, thọc bàn tay vào
vết thương ở cạnh sườn Thầy đúng như đòi hỏi trước đó của mình, thì ông
đã đạt tới đức tin trọn vẹn, biểu lộ qua lời tuyên xưng: “Lạy Chúa
của con. Lạy Thiên Chúa của con!”. Tin mừng không đề cập đến việc ông
có sờ vào các vết thương ở tay chân và cạnh sườn của Thầy như ông đã
yêu cầu trước đó hay không (c. 27-28).
HỎI 4) Đức tin của ông Tô-ma
giá trị thế nào đối với đức tin của các tín hữu sau này ?
ĐÁP: Chúa Giê-su nói với Tô-ma và qua ông, Người muốn
nhắn nhủ các tín hữu sau này: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc
thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29). Thực vậy: có những
mầu nhiệm về Thiên Chúa, mà người phàm tuy không thể thấy hay không cảm
nghiệm được nhưng vẫn phải tin qua các chứng nhân đức tin. Vì đức Tin là điều
kiện để được vào Nước Trời của Chúa Giê-su: "Ai tin và chịu phép rửa, sẽ
được cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án" (Mc 16,16).
Nên biết rằng cũng nhờ tuyên xưng đức tin,
mà Tông đồ Phê-rô đã được Chúa Giê-su đặt làm đá tảng đức tin của
Hội thánh, được trao quyền cầm buộc và tháo cởi (x. Mt 16,18-19),
được quyền chăn chiên (x. Ga 21,15-17) và quyền củng cố đức tin cho các
anh em (x. Lc 22,23). Các Tông đồ cũng được Chúa Giê-su trao quyền giáo
huấn về đức tin: “Ai nghe anh em là nghe Thầy. Ai khước từ anh em là
khước từ Thầy. Mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy”
(Mt 10,40; Lc 10,16).
Tóm lại: Việc Tông đồ Tô-ma cứng tin lại thêm
sự bảo đảm cho lòng tin của chúng ta hôm nay. Vì niềm tin vào mầu nhiệm Chúa sống
lại của chúng ta không chỉ dựa trên những lời rao giảng mà thôi, nhưng trên đức
tin của những chứng nhân có đầu óc sáng suốt và thực tế, đã nhìn thấy tận mắt
và đã sờ tận tay mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giê-su. Do đó, thánh Grêgôriô đã nói:
”Chính ngón tay đa nghi của Tô-ma đã trở nên ông thầy của toàn thế giới; bàn
tay đa nghi của Tô-ma đã dạy cho mọi người một sự thật cách chắc chắn, đó là
Đức Giê-su đã phục sinh”.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Như Chúa
Cha đã sai Thầy, thì thầy
cũng sai anh em” (Ga 20,21).
2. CÂU CHUYỆN: VỀ MỘT PHƯƠNG THẾ TRUYỀN
GIÁO HỮU HIỆU
Ngày nay rao giảng về mầu nhiệm Chúa Phục
Sinh cho người khác có thể chấp nhận không phải dễ. Ngòai việc cần ơn trợ giúp
của Chúa, còn cần phải có chứng tích yêu thương cụ thể của người rao giảng. Câu
chuyện sau đây là một bằng chứng:
Một
vị linh mục ở nước Bờ-ra-din (Bra-sin) đã thuật lại kinh nghiệm
truyền giáo của mình như sau: “Mỗi ngày, khi đi
ngang qua một con đường ở Ri-ô đờ Da-nê-rô (Rio de Janeiro), tôi đều thấy
một thanh niên ngồi dựa lưng vào tường và chìa chiếc nón ra xin tiền
khách qua đường. Anh ta không đi lại được vì đôi chân bị què. Sau đó vì
qua lại nhiều lần trên con đường này, nên tôi không còn để ý đến chàng
thanh niên hành khất bị què kia.
Rồi
một hôm, khi tôi đang đứng nói chuyện với một người quen ở một bên
đường, thì thấy có nhiều người đi bộ ngang qua chỗ anh què ăn xin mà
như không nhìn thấy anh và không chia sẻ tiền bạc gì để giúp đỡ anh.
Tôi liền nghĩ đến thái độ làm lơ của thầy Tư tế và thầy Lê-vi trong
dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu. Hai ông này đã tránh sang một bên
đường mà đi và chỉ có người Sa-ma-ri ngoại giáo đã tỏ lòng thương
xót nạn nhân bằng hành động cụ thể (x. Lc 10,30-35). Tôi quyết định
noi gương người Sa-ma-ri nên đã vui vẻ tiến lại gần bắt chuyện: “Này
anh bạn, anh có thể đứng dậy được không? Anh có muốn đi đứng giống
như mọi người không? ...”Anh ta đưa cặp mắt mệt mỏi nhìn tôi dò xét,
và khi đọc được sự thành thật trên gương mặt của tôi, anh đã trả
lời: “Tôi luôn hy vọng sẽ có ngày cuộc đời của tôi tốt hơn và tôi
được thoát khỏi cái nghề ăn xin nhục nhã hiện nay. Dĩ nhiên là tôi mơ
ước một ngày nào đó tôi có thể tự mình đi đứng được như bao người
khác. Nhưng làm sao kiếm ra tiền để lắp một đôi chân giả và mua được
một cặp nạng đây?” Sau khi nghe anh tâm sự, tôi đã síết chặt tay anh
và nói: “Tôi xin hứa là trong một ngày gần đây, giấc mơ của anh sẽ
trở thành hiện thực”.
Trong
bài giảng Thánh lễ Chúa Nhật mùa Chay hôm ấy, tôi đã kể về số phận
đáng thương của người ăn xin này cùng với ước mơ nhỏ bé của anh. Rồi
tôi đề nghị cộng đoàn cùng nhau làm một cuộc lạc quyên tại chỗ để
giúp đỡ anh ta như một cách ăn chay tinh thần. Số tiền lạc quyên thu
được hôm ấy đã gần đủ chi phí làm đôi chân giả và cặp nạng gỗ mà
người ăn xin cần sử dụng. Tuần sau, khi tôi và hai đại diện cộng đoàn
đến gặp và cho biết kết quả thì chàng thanh niên kia rất vui mừng.
Ngay lúc đó, anh được chở đến bệnh viện chấn thương chỉnh hình để
được ráp một đôi chân giả, và tập đi với đôi nạng mới.
Trong
lễ Phục Sinh năm ấy, tôi mời anh đến nhà thờ dự lễ và dành cho anh
chỗ ngồi đặc biệt cạnh bàn thờ chính. Trong bài giảng, tôi đã đề
cập đến trường hợp của anh như sau: “Hôm nay chúng ta mừng ngày Chúa
Giê-su trỗi dậy từ trong cõi chết, bước vào một cuộc sống mới.
Người kêu gọi chúng ta mở rộng lòng giúp đỡ những anh chị em đang lâm
cảnh nghèo khổ để họ có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Hôm nay, nhờ sự
quảng đại của cộng đòan mà anh bạn của chúng ta đây đã nhận được
một cuộc sống mới”. Nói đến đây tôi mời anh què đứng dậy để giới
thiệu anh với cộng đoàn. Sau đó mọi người trong nhà thờ đều phấn
khởi khi nghe những lời phát biểu chân thành của anh, và vỗ tay tán
thưởng khi nghe anh ngỏ ý xin gia nhập cộng đoàn. Cuối cùng anh què
đã được xếp vào đội hình những người lên dâng lễ hôm đó.
3. SUY NIỆM:
1) Dễ tin và cứng tin: Trong đời sống hằng
ngày, ngòai việc nhận biết nhờ tai nghe hay mắt thấy, chúng ta còn phải tin vào
lời dạy của thầy cô thì mới có thể thăng tiến về học tập và kiến thức, phải tin
vào cha mẹ mới có thể nên người được, phải tin vào lời nói của các đối tác làm
ăn mới có thể kinh doanh thành công được... Tuy nhiên thực tế cũng có nhiều người
đã bị lừa vì dễ tin lời nói ngon ngọt. Vậy về việc tin vào lời nói của người
khác chỉ thực sự tốt đẹp nếu người nói là người đáng tin, điều họ nói hợp lý và
người nghe phần nào có cảm nghiệm về điều ấy.
Riêng
về mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su, các môn đệ không phải là những người dễ
tin: Dù các ông đã được nghe Đức Giê-su ba lần tiên báo về cuộc khổ nạn và phục
sinh của Người, nhưng các ông vẫn không muốn chấp nhận (x Mt 16,21-23). Rồi sau
cuộc tử nạn của Chúa, khi bà Ma-ri-a Mác-đa-la báo tin Thầy Giê-su vẫn còn sống
và chính bà đã được nhìn thấy Người, nhưng các ông vẫn không tin (x Mc 16,9-11).
Vào chiều ngày Thứ Nhất trong tuần, khi Chúa Giê-su Phục Sinh hiện đến thì các môn
đệ lại sợ hãi như nhìn thấy ma. Chúa Giê-su đã trấn an và chứng minh Người không
phải là ma như sau: “Sao anh em lại hỏang hốt ? Sao anh em ngờ vực trong lòng ?
Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt
như anh em thấy Thầy có đây” (Lc 24,38-40). Sau đó thấy các ông vẫn chưa tin, Người
đã ăn một mẩu cá nướng trước mặt các ông (x Lc 24,41-43).
2) Đức tin của Tô-ma và của các tín hữu chúng ta: Tuy Tô-ma là người cứng
tin, nhưng sau khi đã được gặp gỡ Chúa và đã cảm nghiệm về sự phục sinh của
Người, ông đã đạt tới một đức tin sâu xa và vững mạnh nhất, thể hiện qua lời
tuyên xưng đức tin : “Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con !” (Ga 20,28).
Chúa Giê-su cũng qua ông Tô-ma chúc phúc cho các tín hữu sẽ tin theo Người sau
này như sau: “Vì đã trông thấy Thầy, nên con tin. Phúc thay người
không thấy mà tin”. Ngày nay
tuy không ai trong chúng ta được gặp Chúa Phục Sinh, không trực tiếp nghe lời
nói của Người, cũng không được ăn uống tiếp xúc với Người như các Tông đồ xưa,
nhưng đức tin của chúng ta sẽ có phúc nếu chúng ta tin vào lời rao giảng của
các Tông đồ là những chứng nhân đức tin, là những người không dễ tin nhưng đã từng
cảm nghiệm về mầu nhiệm phục sinh như ông Tô-ma trong Tin Mừng hôm nay. Do đó,
cùng với thánh Grêgôriô chúng ta có thể nói: “Ngón tay đa nghi của Tô-ma đã trở
nên ông thầy của toàn thế giới ; bàn tay đa nghi của Tô-ma đã dạy cho mọi người
một sự thật chắc chắn, đó là thân xác Đức Giê-su Ki-tô thực sự đã sống lại”.
3) Sứ vụ cứu độ của Hội Thánh hôm nay
là gì ? : Đức Giê-su Phục Sinh cũng tiếp tục
trao sứ mạng “xóa bỏ tội lỗi và ban ơn tha tội” cho Hội thánh như
sau: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội ai thì người ấy
được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,23).
Việc tha tội này được thực hiện bằng việc rao giảng Tin mừng và ban
bí tích rửa tội cho những ai có lòng tin (x. Mt 28,19-20), và ơn tha
tội qua bí tích giải tội. Quyền tha tội này chính là quyền “cầm
buộc và tháo cởi” đã được Đức Giê-su trao cho Tông đồ Phê-rô (x. Mt
16,19) và trao chung cho Nhóm Muời Hai (x. Mt 18,18).
4) Truyền đạt Đức Tin cho con
người ngày nay bằng cách nào ? : Trước khi về trời, Chúa
Phục Sinh đã trao cho Hội Thánh sứ vụ loan
báo Tin Mừng cho muôn dân (x Mt 28,19-20). Sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho con
người ngày nay không dễ chút nào. Muốn thuyết phục người ngày nay tin vào Chúa
Giê-su, tin vào lời Người rao giảng thì cần có những điều kiện như sau:
- Một là phải nhận được ơn Thánh Thần: Ta hãy năng cầu nguyện
kết hiệp với Đức Mẹ Ma-ri-a, các anh em Chúa, các Tông đồ và môn đệ như trong lễ
Ngũ Tuần. Chỉ khi có ơn Thánh Thần thôi thúc trợ giúp, việc tông đồ truyền giáo
mới mang lại thành công như lời Chúa Giê-su dạy: “Thầy là cây nho, anh em là
cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa
trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
- Hai là hiệp nhất với Chúa qua việc vâng lời các mục tử
trong Hội Thánh: Khi kết hiệp với Chúa Giê-su qua việc vâng phục các vị chủ chăn trong
Hội Thánh, công việc tông đồ của chúng ta mới có thể mang lại kết quả tốt đẹp,
như ông Si-mon đã thưa với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng tôi đa vất vả suốt đêm, mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Các
ông đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới (Lc
5,6).
- Ba là phải rao giảng bằng lối sống chứng nhân tình
thương: Thế giới ngày nay đầy rẫy những kẻ hoài nghi và
không tin tưởng. Cách thức duy nhất làm cho họ được ơn biến đổi trong lòng tin
là làm sao để họ có thể “nhìn thấy” Đức Giêsu và “đụng
chạm“ vào Người qua con
người nhân bản của các tín hữu, qua lời nói thân thiện lễ độ và lối ứng xử khiêm
tốn phục vụ vị tha của chúng ta. Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lo II đã nói: “Người thời nay không thích nghe các thầy
dạy, mà chỉ thấy các chứng nhân; và giả sử như người ta có thích nghe các thầy
dạy, thì các thầy dạy đó trước tiên phải là những chứng nhân”.
- Hôm nay cũng là lễ kính
“Lòng
Thương xót của Chúa” mà Đức Gioan-Phaolô II đã thiết lập ngày
30-4-2000. Chúng ta hãy nhớ đến hình ảnh
Đức Giê-su từ bi thương xót do thánh Faus-ti-na Ko-wals-ka để lại: Người
mặc y phục trắng, bàn tay phải ban phép lành, bàn tay trái vén mép áo ngực, từ
đó thoát ra các tia sáng xám và đỏ, tượng trưng Bí tích Thánh Thể và Bí tích Rửa
Tội. Đức Giêsu là hiện thân Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chúng ta hãy cùng với
thánh nữ Faus-ti-na Ko-wals-ka thưa với Người rằng: “Lạy Chúa Giê-su, con xin tín
thác vào Người !” Chúng ta hãy trở thành hiện thân của Lòng Chúa thương xót qua
lối sống hiệp nhất, chia sẻ nâng đỡ nhau, sẵn sàng tha thứ cho nhau.
4. THẢO LUẬN: 1- Bạn đánh giá thế nào về phương cách
truyền giáo của vị linh mục người Bờ-ra-din trong câu chuyện trên? 2-
Qua bí tích thêm sức, bạn đã được Chúa Phục Sinh thổi hơi thông ban
Thánh Thần và được trao sứ vụ“làm chứng nhân” cho Chúa. Vậy bạn
quyết tâm sẽ làm gì trong những ngày này để đưa một người chưa biết Chúa
được tin nhận vào Người ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Tông đồ Tô-ma tuy
lúc đầu cứng lòng tin, nhưng sau đó đã đạt đến một đức tin trọn hảo
khi gặp gỡ Chúa Phục Sinh. Chính sự “cứng lòng” của Tô-ma lại trở
thành chỗ dựa vững chắc cho đức tin của chúng con hôm nay. Rồi các
tông đồ cũng đã tỏ ra trung thực và khiêm tốn khi thuật lại cả những
điều thiếu sót, các sự chậm tin và hồ nghi của mình để đức tin của
chúng con hôm nay được thêm vững mạnh. Giờ đây cùng với Tô-ma xưa,
chúng con long trọng tuyên xưng rằng: “Lạy Chúa là Cứu Chúa và là
Thiên Chúa của con”.
- LẠY CHÚA. Trong những ngày này, xin cho
chúng con thêm xác tín vào quyền năng của Chúa, để năng thưa với Chúa
rằng: “Lạy Chúa, con tin ! Nhưng xin Chúa hãy trợ giúp lòng tin yếu
kém của con!” (x. Mc 9,24). Con nhận thấy đức tin của con hiện vẫn còn
yếu đuối và có nguy cơ chết dần do thiếu hành động, như lời thánh
Gia-cô-bê: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc
2,17). Xin cho chúng con biết tuyên xưng đức tin bằng lời nói, và nhất
là bằng các việc bác ái cụ thể như: thăm viếng, an ủi những người
đau khổ; nhường cơm xẻ áo cho những người đói rách bất hạnh... như
Chúa dạy và được Hội thánh tóm lại trong kinh “Thương người”. Vì đây
là phương thế truyền giáo hữu hiệu nhất trong thế giới hôm nay.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN
CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH
www.hiephoithanhmau.com