CHÚA NHẬT VII PHỤC SINH

CHÚA THĂNG THIÊN C

Cv 1,1-11 ; Ep 1,17-23 ; Lc 24,46-53

LÀM CHỨNG CHO CHÚA HÔM NAY 

I. HỌC LỜI CHÚA

1.TIN MỪNG: Lc 24,46-53

(46) Khi ấy Đức Giê-su hiện ra với các môn đệ và bảo: “Có lời Kinh thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại. (47) Và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. (48) Chính anh em là chứng nhân của những điều này”. (49) Và đây, chính Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống. (50) Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. (51) Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được rước lên trời. (52) Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ, (53) và hằng ở trong Đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.

2. Ý CHÍNH:

Tin mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giê-su sau khi phục sinh đã hiện ra với các môn đệ vào chiều ngày Thứ Nhất trong tuần, nhằm mục đích dạy các ông hiểu Người trải qua cuộc tử nạn và phục sinh đúng như lời Thánh kinh, và các ông có bổn phận làm chứng về những điều mắt thấy tai nghe ấy. Người cũng hứa sẽ ban Thánh Thần đến giúp đỡ các ông. Sau đó, Đức Giê-su lên trời đang khi giơ tay chúc phúc cho các ông gần làng Bê-ta-ni-a. Rồi các ôing trở về Giê-ru-sa-lem cầu nguyện đón nhận ơn Thánh Thần.

3. CHÚ THÍCH:

- C 46-48: + Khi ấy Đức Giê-su hiện ra với các môn đệ: Về con số môn đệ được chứng kiến việc Chúa Giê-su lên trời thì Tin mừng Lu-ca không nêu rõ, đang khi Tin mừng Mát-thêu và Mác-cô nói là 11 ông (x Mt 28,16; Mc 16,15). Về nơi Chúa lên trời thì các tác giả không thống nhất: Lu-ca cho biết ở gần làng Bê-ta-ni-a (x Lc 24,50), Mát-thêu xác định là xứ Ga-li-lê, tại quả núi đã được Người chỉ định trước (x. Mt 28,16). Sách Công vụ thì cho biết Đức Giê-su lên trời tại núi Ô-liu gần thành Giê-ru-sa-lem (x Cv 1,12) + Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem: Lu-ca luốn nhấn mạnh về tầm quan trọng của Giê-ru-sa-lem. + Chính anh em là chứng nhân của những điều này: Các Tông đồ được sai đi nói cho mọi người biết về Đức Giê-su, dựa theo những điều mắt thấy tai nghe tay sờ, sau khi Người đã từ cõi chết sống lại (x. Ga 21,24; Cv 3,15).

- C 49-50: + Chính Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa: Đức Giê-su tiên báo điều Chúa Cha đã hứa là gửi Chúa Thánh Thần đến với các Tông đồ sau khi Người bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha (x Cv 1,8). + Cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống: Quyền năng này chính là sức mạnh của Thánh Thần. Trong Tân ước, Chúa Thánh Thần và quyền năng luôn gắn liền với nhau. Chẳng hạn trong biến cố truyền tin, sứ thần đã nói với Trinh nữ Ma-ri-a: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà” (Lc 1,35). Sau khi chiến thắng Xa-tan cám dỗ, Đức Giê-su đã trở về Ga-li-lê trong quyền năng Thánh Thần để bắt đầu sứ vụ (x. Lc 4,14-19). Giờ đây, Đức Giê-su lại sắp trao cho các Tông đồ quyền năng Thánh Thần sau cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Người. Từ đây, các Tông đồ đã cố gắng chu toàn sứ vụ làm chứng về mầu nhiệm Chúa Giê-su đã chết và sống lại (x. Cv 4,33). Các ông không dùng sức riêng làm các phép lạ, nhưng nhờ quyền năng Thiên Chúa và nhờ Danh Đức Giê-su Ki-tô (x Cv 3,16; 4,7-10). + Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a: Với tư cách là Vua Mê-si-a, Đức Giê-su đã khải hoàn tiến vào thành Giê-ru-sa-lem, bắt đầu từ làng Bê-ta-ni-a (x. Lc 19,28-29). Giờ đây với tư cách là Đấng Phục Sinh chiến thắng tử thần, Đức Giê-su cũng khải hòan về trời từ làng Bê-ta-ni-a này (x. Lc 24,50). + Rồi giơ tay chúc lành cho các ông: Thời Cựu ước, các Tổ phụ dân Ít-ra-en thường chúc lành cho con cháu trước khi chết như: I-xa-ác chúc lành cho Gia-cóp (x. St 27,23-29) ; Gia-cóp chúc phúc cho 12 con trai (x. St 49,28) ; Mô-sê chúc phúc cho con cái Ít-ra-en (x. Đnl 33,1). Ở đây, trước khi về trời, Chúa Giê-su cũng chúc lành cho các Tông đồ. Ngày nay, vào cuối Thánh lễ, linh mục chủ tế cũng chúc lành cho các tín hữu trước khi giải tán họ.

- C 51-52: Người rời khỏi các ông và được rước lên trời: Qua sự kiện lên trời ở đây, tác giả Tin mừng Lu-ca muốn cho thấy hai mầu nhiệm Phục Sinh và Thăng Thiên luôn gắn bó mật thiết với nhau. Trong sách Công vụ (1,6-11), tác giả Lu-ca coi việc Thăng Thiên như kết thúc các lần Chúa hiện ra với các môn đệ, khởi đầu sứ vụ làm chứng cho Người tại Giê-ru-sa-lem cho đến tận cùng thế giới (x. Cv 1,8).

4. CÂU HỎI: 1- Chúa Giê-su đã lên trời ở nơi nào? Bao nhiêu môn đệ đã được chứng kiến Người lên trời? 2- Theo Tin mừng Lu-ca, Giê-ru-sa-lem có vai trò gì trong công cuộc cứu độ của Đức Giê-su? 3- Các Tông đồ phải làm gì để thi hành sứ vụ làm chứng nhân cho Đức Giê-su? 4- Đức Giê-su hứa ban quyền năng từ trên cao xuống trên các Tông đồ. Vậy các ông đã nhận được quyền năng ấy khi nào? 5- Tin mừng Lu-ca cho thấy hai mầu nhiệm Phục Sinh và Thăng Thiên có liên quan với nhau ra sao?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: Chính anh em là chứng nhân của những điều này” (Lc 24,47-48).

2. CÂU CHUYỆN: CHỨNG NHÂN BÁC ÁI - PHƯƠNG THẾ TRUYỀN GIÁO HIỆU QUẢ.

Một tân tòng gặp một anh bạn vô tín. Người vô tín này hỏi thăm về việc theo đạo của anh như sau:

- Nghe nói anh mới theo đạo Công giáo phải không ?

- Vâng, đúng hơn là tôi mới theo làm môn đệ Chúa Giê-su.

          - Thế thì chắc anh đã phải biết rõ về ông ta. Vậy hãy cho tôi biết ông Giê-su sinh ra ở đâu ?

  - Tôi đã học rồi, nhưng rất tiếc bây giờ tôi lại quên mất.

  - Thế ông Giê-su sống ở trần gian bao nhiêu năm ?

  - Tôi không nhớ rõ lắm.

  - Vậy anh có biết ông ta đã giảng bao nhiêu bài, làm bao nhiêu phép lạ, có bao nhiêu tác phẩm viết về ông ta ?...Nói chung, sự nghiệp của ông  ta như thế nào ?

- Tôi cũng không rõ.

  - Như vậy là anh đã biết quá ít về ông Giê-su. Vậy tại sao anh lại theo đạo của ông ta ?

  - Anh đã nói đúng. Tôi rất xấu hổ vì mới chỉ biết qúa ít về Đức Giê-su. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này : ba năm trước, tôi là một tên nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ nần chồng chất. Gia đình lâm vào tình trạng bất hạnh. Vợ con đều buồn giận và không muốn nhìn mặt tôi. Tôi chán nản tuyệt vọng thậm chí muốn đâm đầu vào xe lửa để chết quách đi cho xong. Nhưng một hôm tôi đã gặp được Đức Giê-su qua một người bạn công giáo. Anh này đã đưa tôi đến gặp một vị linh mục và tôi được vị linh mục khuyên chừa bỏ thói hư, được giới thiệu công ăn việc làm và được ghi tên học giáo lý công giáo. Sau một năm tôi đã trả hết được nợ nần, đã chừa bỏ được tật say sỉn, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc. Mỗi chiều vợ con tôi đều vui vẻ chào đón tôi về nhà sau giờ tan sở. Sở dĩ tôi được hạnh phúc như ngày nay, tất cả đều bắt nguồn từ tin vào Đức Giê-su. Và đó là tất cả những gì tôi biết rõ về Người.

3. SUY NIỆM:

  1. Quê hương chúng ta ở trên trời: Trước cuộc tử nạn, Đức Giê-su dã khích lệ các môn đệ như sau :”Lòng anh em đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha của Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi. Vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại, và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”(Ga 14,1-3). Thánh Phao-lô cũng khẳng định: ”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta”(Pl 3,20).

Trong thực tế, phải thừa nhận như lời thánh Phao-lô: “có nhiều người sống thù nghịch với thập giá Ðức Ki-tô. Chung cuộc đời họ là hư vong, chúa tể của họ là cái bụng, và họ đặt vinh danh của họ trong những điều ô nhục; họ chỉ ưa chuộng những cái trên cõi đời này” (Pl 3,17). Có nhiều tín hữu đã quá bám víu vào các thực tại trần gian là cái nay còn mai mất, như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, chức quyền… Thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Phi-líp-phê, cũng là khuyên chúng ta hôm nay: Quê hương của chúng ta không phải ở trần gian, nhưng trên trời. Như dân Ít-ra-en xưa đã đi qua sa mạc bốn mươi năm để được thanh luyện, trước khi được vào trong miền Đất mà Đức Chúa đã hứa ban cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời, thì trần gian hôm nay cũng là một chặng đường mà chúng ta phải trải qua, trước khi về tới quê trời vui hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa.

2.  Điều kiện để được lên trời: Đức Giê-su được Chúa Cha sai đến để thiết lập Nước Trời, là Thiên đàng, xưa đã bị A-đam E-và đánh mất do phạm tội không vâng phục và bị phạt xuống trần gian là thung lũng đầy nước mắt. Đức Giê-su đã được Chua Cha sai đến trần gian cứu độ lòai người. Người đã thiết lập Nước Trời, và làm cho Nước ấy sẽ ngày một triển nở biến thành một Trời Mới Đất Mới viên mãn vào ngày tận thế. Để được vào Nước Trời do Đức Giê-su thiết lập, cần phải vâng theo thánh ý Thiên Chúa là tuân giữ các giới răn “mến Chúa yêu người” như Đức Giê-su dạy: ”Không phải những ai cứ kêu Lạy Chúa ! Lạy Chúa ! mà được vào Nước Trời, mà chỉ những ai làm theo thánh ý của Cha Ta” (Mt 7,21-23; Lc 6,46; 13,26-27). Nước Trời hay thiên đàng  là phần thưởng cho những ai làm theo thánh ý Chúa.

 3. Sứ vụ làm chứng cho Chúa: Khi Chúa lên trời, các môn đệ cứ đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì kìa có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh họ và nói: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1,10-11). Từ đây, sứ vụ của các ông là phải ra đi rao giảng tin mừng Nước Trời, làm chứng về sự chết và sống lại của Đức Giê-su (Cv 1,8b).. Từ đây các ông phải xuống núi, chu toàn sứ vụ xây dựng môi trường mình đang sống trở thành một Trời Mới Đất Mới đầy công bình yêu thương và bình an (x Kh 21,1.4).

Cách đây ít lâu, tờ “Lơ Fi-ga-rô” (Le Figaro) đã có đăng một bài báo phỏng vấn Tổng thống Nga Pu-tin nội dung như sau: Khi được hỏi trong chuyến đi Giê-ru-sa-lem của ông mới đây, người ta đã thấy ông đến cầu nguyện tại mồ Đức Giê-su và tay ông cầm cây thánh giá. Vậy ông có cảm thấy mâu thuẫn giữa việc trước đây đã từng là cựu sĩ quan của tình báo KGB với việc bày tỏ đức tin hiện nay hay không?” Tổng thống Pu-tin đã trả lời như sau: “Cuộc sống được tạo nên bằng những điều mâu thuẫn. Chỉ khi nào chết thì người ta mới hết mâu thuẫn... Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo. Mẹ tôi đã bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các ông lại ngạc nhiên khi thấy tôi cầm cây thánh giá mà cầu nguyện tại ngôi mộ của Chúa Giê-su? Tôi tự hào là một tín hữu... Niềm tin của tôi đã cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn”.

4. Làm chứng cho Chúa bằng cách nào ? : Chứng nhân là người nghe gì thì nói lại y như vậy, thấy sao thì thuật lại cách trung thực cho người không thấy, là người sống và hành động theo điều mình hiểu biết và xác tín. Còn làm chứng là dùng lời nói hành động quả quyết về một sự việc đã thực sự xẩy ra mà chính mình đã chứng kiến hay đã trải nghiệm. Đức Giê-su đã đi giảng đạo gần ba năm và được mười một Tông đồ, bảy mươi hai môn đệ và dân chúng đương thời chứng kiến và có thể làm chứng, như Ngừơi đã nói với thượng tế Cai-pha : "Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Ðền Thờ, nơi mọi người Do thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. Sao ông lại hỏi tôi? Ðiều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì" (Ga 18,20-21). 

Đức giáo hòang Phao-lô VI đã nói:”Mỗi ngưởi giáo dân, tự bản chất, là một chứng nhân”.  Bởi vì khi lãnh nhận phép rửa tội và Thêm sức, chúng ta đã được Đức Giê-su trao cho sứ vụ làm chứng cho Người. Các tín hữu chúng ta hôm nay tuy không thấy, không gặp gỡ tiếp xúc trực tiếp với Chúa như các Tông đồ hay dân Do thái xưa, nhưng chúng ta nhờ đức tin, vẫn có thể suy niệm và thực hành Lời Chúa và được ơn Thánh Thần biến đổi nên con người mới giống Đức Giê-su. Cách thức làm chứng tốt nhất là quên mình vị tha bác ái theo gương Người làm và lời Người dạy.

Tóm lại: Làm chứng cho Chúa là công khai nhận mình là người tin Chúa, sống theo đức tin và sẵn sàng tuyên xưng đức tin ấy trước mặt người đời bằng lời nói cũng như hành động.

4. THẢO LUẬN: 1- Con người ngày nay thích nghe các chứng nhân hơn các bậc thầy dạy, thích nhìn thấy những gương sáng hơn nghe lời giảng suông, như Ba-banh (Babin) đã nói: “Người ta chỉ có thể tin vào Đức Giê-su, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ đi loan báo Người”. Bạn có đồng ý với các nhận định nói trên hay không? Tại sao? 2- Trong quá khứ, bạn đã làm được việc nào tâm đắc nhất để làm chứng cho Chúa? Bạn quyết tâm sẽ làm chứng cho Chúa thế nào trước mặt bạn bè, đồng nghiệp hay người xa lạ trong những ngày sắp tới?

5. NGUYỆN CẦU

- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Tuy là Con Thiên Chúa, nhưng vì yêu thương nhân lọai mà Chúa đã vâng lời Chúa Cha, từ trời xuống thế làm người. Chúa đã tình nguyện mang thân phận một người phàm. Chúa đã nên giống như chúng con mọi đàng ngoại trừ không phạm tội. Chúa đã biểu lộ một tình yêu tột đỉnh khi sẵn sàng chấp nhận mọi nỗi đau khổ và cả cái chết nhục nhã trên cây thập giá, để đền tội thay cho chúng con và đã sống lại để phục hồi sự sống cho chúng con.

- LẠY CHÚA. Hôm nay mừng ngày Chúa về trời. Xin cho chúng con nhớ rằng: “Quê hương chúng con ở trên trời, nơi đó chúng con sẽ gặp Đấng Cứu Chuộc” là Chúa. Xin giúp chúng con chu toàn bổn phận làm con Chúa Cha và làm anh em của mọi người. Xin cho chúng con sẵn sàng góp phần xây dựng thế giới này ngày một tươi đẹp hạnh phúc hơn, công bằng nhân ái hơn. Xin cho chúng con ý thức rằng: tuy sống giữa thế gian nhưng chúng con không thuộc về trần gian. Xin đừng để chúng con quá quyến luyến với những của cải vật chất nay còn mai mất, nhưng luôn biết phó thác cậy trông, và quảng đại chia sẻ cơm áo cho những người nghèo, an ủi giúp đỡ những người đau khổ ... để sau này chúng con cũng được về trời với Chúa.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM ĐAN VINH - Hiệp Hội Thánh Mẫu


Suy Niệm Lời Chúa Năm C