ĐỨc
Giêsu chỊu phép rỬa
(Luca 3,15-16.21-22
– Phép Rửa - C)
1.- Ngữ cảnh
Do sự chọn lựa của
Phụng Vụ, trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta được đọc một đoạn giới thiệu lời
chứng của Gioan Tẩy Giả và một đoạn nói đến phép rửa của Đức Giêsu. Câu Lc 3,19 tách đoạn nói về Gioan Tẩy Giả
với đoạn liên hệ tới Đức Giêsu, để nói về hai thời đại cứu độ. Gioan đã hoàn
tất nhiệm vụ Tiền Hô. Bây giờ tới lúc Đức Giêsu thì hành sứ vụ.
2.- Bố cục
Đoạn văn có hai phần tách biệt:
1) Lời chứng của ông Gioan Tẩy Giả về Đức Giêsu
(3,15-16);
2) Đức Giêsu chịu phép rửa và cuộcthần hiển
(3,21-22).
3.- Vài điểm chú giải
- Đấng Mêsia (15): tức là “Đấng được xức dầu”. Ít ra
từ đầu thế kỷ ii tCN, trong Do
Thái giáo Paléttina, có kết tinh một nỗi niềm chờ mong Đấng Mêsia. Lời
sấm của ngôn sứ Nathan (2 Sm 7,14-17)
và “những lời cuối cùng của vua Đavít” (2
Sm 23,1-17) tiết lộ lời Thiên Chúa hứa ban một vương tộc và minh
nhiên qui chiếu về vua Đavít lịch sử như là “đấng được xức dầu” của Thiên Chúa
Giacóp. Xem Tv 18,51; 89,39.52;
132,10.17.
- Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến (16): Dịch sát là “Đang đến Đấng mạnh hơn
tôi”. Tác giả Luca nhấn mạnh đến động từ “đang đến” (HL. erchetai) đặt ở
đầu câu; ngài đã lấy lại Mc 1,7, nhưng
bỏ cụm từ “sau tôi”. Đây là một gợi ý tới bản văn Ml 3,1.23.
- tôi không đáng cởi quai dép (16): Hành vi này là
nhiệm vụ của một nô lệ. Tập tục được thực thi như sau: người chủ đi dự
một cuộc tiếp tân, có một nô lệ đi theo; vào phòng, người chủ phải cởi
dép; khi đó, người nô lệ quỳ xuống (x. Mc
1,7) để tháo quai dép cho ông (x. Mc
và Lc); và trong suốt cuộc tiếp tân,
người nô lệ phải xách dép của chủ (x. Mt
3,11). Trong truyền thống kinh sư Do Thái, các kinh sư cấm môn đệ làm việc này
cho thầy mình. Hình ảnh ông Gioan dùng nêu bật vị trí thấp kém của ông trong
quan hệ với Đức Giêsu, Đấng mạnh hơn.
- phép rửa trong Thánh Thần và lửa (16): Nước có ý nói về
nghi thức bên ngoài, thực hiện trên thân xác; còn lửa là biểu tượng diễn tả sự
biến đổi bên trong tâm hồn. Trong khi nước chỉ đạt tới bề mặt của các sự vật,
thì lửa thấm sâu vào, thanh luyện, soi sáng, đốt cháy. Trong phép rửa Đấng
Mêsia thiết lập, người ta sẽ không gặp được thứ lửa nào ngoài thứ lửa của Thánh
Thần, bởi vì chính Người thánh hóa các tâm hồn.
Dựa theo Mt 3,11, ta phỏng đoán rằng rất có thể
ông Gioan Tẩy giả lịch sử đã không nói đến phép rửa trong Thánh Thần, nhưng là
phép rửa trong “gió [khí]”, như thế để cho từ “lửa” vẫn giữ được ý nghĩa “lửa
Phán xét” trong suốt bản văn. Sau đó, các Kitô hữu đã đọc lại và đã giải thích
lại “gió [khí]” như là làn hơi Thánh Thần: đọc như thế cũng là hợp lý, bởi vì trong
tiếng Híp-ri cũng như tiếng Hy Lạp, một từ ngữ duy nhất (Hp. ruâh,
HL. pneuma) được dùng để chỉ gió và Thần Khí. Như vậy, hẳn là ông Gioan
Tẩy Giả đã nói đến một phép rửa “trong gió [khí] và lửa” Phán xét, nhưng chẳng
bao lâu (có khi là ngay lúc còn đang truyền khẩu), các Kitô hữu đã hiểu các lời
này như loan báo một phép rửa “trong [Thánh] Khí hoặc Thánh Thần và lửa”
của Lễ Ngũ Tuần.
Cũng cần nói rằng không
nên giới hạn tầm mức lời ông Gioan nói vào phép rửa mà thôi. Cần phải
thấy đó là mọi cuộc thông ban Thánh Thần do Đức Giêsu thực hiện, hoặc
bằng phép rửa Kitô giáo, hoặc bằng bí tích thêm sức, hoặc bằng cách nào khác: Lc 12,49 (Đức Giêsu ném lửa xuống thế
gian); Cv 1,4-5 (điều Chúa Cha đã
hứa); 2,1-4 (lưỡi lửa).
Nhưng cũng vẫn có nghĩa
là lửa Phán xét. Chúng ta bị đặt giữa hai ngọn lửa: lửa Thánh Thần và lửa của
cơn giận không tắt. Bởi vì Đấng Mêsia sẽ là Thẩm Phán (x. cc. 17-18).
- đang khi Đức Giêsu cầu nguyện (21): Đối với tác giả Luca, việc cầu nguyện lấp đầy cuộc đời Đức
Giêsu (5,16; 6,12; 9,18.28-29; 11,1; 22,32-41.44), nên vào lúc đặc biệt này,
Người cầu nguyện là việc tự nhiên. Nhưng tác giả TM ghi nhận như thế còn là để nói về mục tiêu của việc cầu nguyện (Lời
cầu nguyện của người Kitô hữu chủ yếu hệ tại việc cầu xin Thiên Chúa ban Thánh
Thần [x. 11,13]), và nói về liên hệ giữa cầu nguyện trong cộng đoàn và ơn Thánh
Thần (x. Cv 4,31).
- trời mở ra (21): Người ta chờ đợi vào thời cuối
cùng, trời mở ra, vì lâu nay vẫn đóng lại (Is
64,1). Đức Giêsu là nơi Thiên Chúa hiện diện trên mặt đất, là Bết-Ên (“Nhà
Chúa”) của giao ước mới (Ga 1,51; x. St 28,17).
- Thánh Thần ngự xuống (22): Đức Giêsu có
Thần Khí bởi vì Người đã được cưu mang bởi Thần Khí (1,35) Người sẽ nhận Thần
Khí tứ Chúa Cha khi đã được nâng lên bên hữu Cha (Cv 2,33), và bây giờ Người đang nhận Thần Khí. Không phải là Thần
Khí chỉ được ban cho Đức Giêsu theo mức độ tiệm tiến, nhưng vào những giờ phút
quan trọng trong cuộc đời Người, ta lại thấy Người có Thần Khí một cách
mới. Chính Thiên Chúa quyết định về sự biểu lộ này.
Dựa vào truyền thống
của cộng đoàn tiên khởi, tác giả Luca
coi biến cố Thánh Thần đến trên Đức Giêsu vào dịp Người nhận phép rửa như là
việc “xức dầu”, việc Người được tấn phong làm “Đấng được xức dầu” (Cv 10,37-38; Lc 4,18; x. Is 61,1). Lời
nói từ trời xác minh điều này, khi trích Tv
2 mà áp dụng cho Đức Giêsu.
- Con là Con của Cha; ngày hôm nay Cha đã sinh
ra Con
(22): Đây là c. 7 của Tv 2. Bài này
là một Thánh vịnh vương giả được khoa chú giải Do Thái giải thích như là
một Thánh vịnh về Đấng Mêsia. Khi áp dụng c. 7 vào phép rửa của Đức Giêsu, đặc
điểm vương giả bị mờ nhạt đi; nhưng đây đúng là một lễ tấn phong (ký
thác và thừa nhận vào một nhiệm vụ cao cả do Thiên Chúa ủy nhiệm) và là
một lễ tấn phong thiên sai (theo một nghĩa khá tổng quát: sứ mạng cứu
thế).
4.-Ý nghĩa của bản văn
* Lời chứng của ông Gioan Tẩy Giả về Đức Giêsu (15-16)
Theo lời chứng của vị
Tẩy Giả, Đức Giêsu không những là “Đấng đang đến”, mà còn là “Đấng mạnh hơn”;
Người như là một nhà cải cách đầy lửa, tương tự ngôn sứ Êlia. Gioan đã so sánh phẩm giá hai nhân vật mà dân chúng
có thể lầm: bản thân ông và Đức Giêsu. Ông còn bất xứng hơn một tên nô
lệ trong việc phục vụ chủ. Giữa phép rửa ông thực hiện và phép rửa của Đức
Giêsu cũng thế: phép rửa của ông chỉ là một phép rửa trong nước, là một
nghi thức tượng trưng để giúp diễn tả các tâm tình thống hối; còn phép rửa
của Đấng Mêsia là một cuộc tuôn đổ Thánh Thần, có khi chẳng cần rửa bằng
nước; và ngay khi nghi thức bên ngoài là một việc rửa bằng nước (phép
rửa Kitô giáo), thì cũng vẫn là bên trong tâm hồn mà Thánh Thần đi sâu vào như
lửa.
* Đức Giêsu chịu phép rửa và cuộc thần hiển (21-22)
Tác giả Lc không nói ai đã ban phép rửa cho Đức
Giêsu. Đứng về phương diện văn chương, ngài có thói quen kể xong một truyện rồi
mới sang truyện khác: ở cc. 19-20, ngài kết thúc truyện về Gioan Tẩy Giả bằng
thông tin là ông này đã bị tiểu vương Hêrôđê bỏ tù. Do đó, khi nói đến phép rửa
của Đức Giêsu, tác giả đành im lặng về người ban phép rửa (Không lẽ Gioan ra
khỏi nhà tù để ban phép rửa rồi vào tù lại?!). Tuy nhiên, chính bản văn cũng
cho thấy là ngài không quan tâm nhiều đến điểm này: ở c. 21, ngài chỉ nhắc đến
phép rửa của Đức Giêsu trong một mệnh đề chỉ thời gian mà thôi, có vẻ
như đồng hóa sự kiện Đức Giêsu chịu phép rửa vào sự kiện toàn dân chịu phép
rửa. Dù sao, Đức Giêsu đã chịu phép rửa: vậy sứ mạng của vị Tiền Hô đã kết
thúc. Chắc chắn tác giả ý thức về tình liên đới của Đức Giêsu đối với những
người tội lỗi hoán cải; nhưng ngài không triển khai ý tưởng này. Ngài hoàn toàn
chú ý đến ân ban Thánh Thần, và đặt biến cố này ở trung tâm bài tường thuật.
Ngài không mô tả phép rửa, nhưng mô tả cuộc thần hiển. Ngài nhấn mạnh trên tính
hiện thực bên ngoài của việc Thần Khí ngự đến: thay vì nói “Thánh Thần, như
chim bồ câu”, ngài nhấn mạnh: “Thánh Thần, dưới hình dáng như chim bồ
câu”. Quả thật, ngài giữ lại nhiều chi tiết thuộc truyền thống: trời mở ra,
Thánh Thần ngự xuống, tiếng nói từ trời. Nhưng chỉ một mình ngài ghi
rằng sự can thiệp của Chúa Cha là để trả lời cho lời cầu nguyện của Đức Giêsu.
“Con là Con của Cha;
ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”. Lời tuyên bố này đi trước một quãng thời
gian quan trọng trong hoạt động, sứ vụ tại Galilê, của Đức Giêsu, như được
trình bày trong TM Lc. Và lời tuyên
bố ở 9,35 đi trước bài tường thuật về cuộc hành trình lên Giêrusalem. Trong cả
hai cảnh, lời xác nhận từ trời nêu bật quan hệ của Đức Giêsu với Cha Người, mỗi
khi bắt đầu một giai đoạn trong hoạt động trần thế của Người.
+ Kết luận
Được đầy sức mạnh Thánh
Thần, được chuẩn nhận trong ý thức về Người là Con yêu dấu của Thiên Chúa, luôn
hiệp thông đặc biệt Cha, Đức Giêsu vĩnh viễn lãnh nhận sứ mạng bắt tay vào công
trình cứu độ, đùng theo chương trình của Thiên Chúa đã được phác ra trong Kinh
Thánh.
Được tác giả Lc kể lại ngay tại ngưỡng cửa của sứ vụ
công khai của Đấng Cứu Thế, bài tường thuật này cho thấy kể từ nay, phải hiểu
cuộc sống công khai của Đức Kitô dưới ánh sáng này. Với biến cố Thánh Thần được
ban xuống, Con Thiên Chúa bước vào cuộc đời nhân loại, ta thấy thời đại cánh
chung đã bắt đầu, Nước Trời đã được khai mạc.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Một ngày nào đó, Đức Giêsu “sẽ ban phép rửa trong
Thánh Thần và lửa”. Nhưng trong khi chờ đời, Người phải hạ mình xuống nhận phép
rửa bằng nước của ông Gioan Tẩy Giả. Mọi cuộc sống Kitô hữu cũng phải đi qua mầu
nhiệm Vượt Qua. Mọi cuộc sống Kitô hữu cũng là hạ mình và tôn vinh. Hạ mình qua
việc vui tươi yêu thương chấp nhận phục vụ kẻ khác. Hạ mình trong tình trạng vô
danh và nhàm chán của cuộc sống thường nhật theo gương Đức Giêsu sống tại
Nadarét. Hạ mình trong cuộc chiến đấu bền bỉ chống lại tính ích kỷ tự nhiên,
những khuynh hướng muốn thống trị anh chị em, ước muốn tiện nghi và xa hoa để
sống lười biếng và huênh hoang.
2. Nếu chúng ta sống trung thành nếp sống con
cái, ngày nào đó chúng ta sẽ được nghe Chúa Cha tuyên bố: “Con là con của Cha”.
Rồi Ngài sẽ đưa chúng ta vào trong cuộc sống vinh quang thâm sâu của Ngài; còn
trong lúc này, Ngài sẽ ban niềm an ủi, ánh sáng, đủ mọi thứ ân huệ cho chúng
ta.
3. Vào lúc Đức Giêsu chịu phép rửa, trời đã mở
ra: giữa con người và Thiên Chúa, lại có thể có quan hệ thân tình. Cái hàng rào
giữa Thiên Chúa và chúng ta, đã được dựng lên do tọi lỗi của loài người, này
được vĩnh viễn hủy bỏ, bởi vì bây giờ có một người đang thường xuyên diện đối
diện với Thiên Chúa. Trời đã đóng lại vì tội lỗi, nay lại mở ra để Thần Khí đi
xuống trên một con người có khả năng đón nhận Ngài trọn vẹn. Kể từ nay,
qua con người tên là Giêsu này, mọi người lại đi tới được với Chúa Cha.
4. Chính là trong khi cầu nguyện mà Đức Giêsu
nhận được lời chứng của Chúa Cha và sự tỏ hiện của Thánh Thần. Đối với chúng ta
cũng vậy, cầu nguyện là khoảnh khắc ưu tuyển để gặp được Chúa Cha và nhận được
dồi dào hơn nữa các ân huệ của Thánh Thần.
Lm PX Vũ
Phan Long, ofm