ĐỨc
Giêsu TẠi Nadarét
(Luca 1,1-4; 4,14-21 – CN III TN - C)
1.- Ngữ cảnh
Tác giả Lc đưa Đức Giêsu đi vào lịch sử dưới dấu chỉ là hoàn cảnh chính trị
và tôn giáo của đế quốc Rôma và của Israel. Qua cái cổng này, ngài lấy lại các
chặng của TM Mc.
Lc đặt phần 1 của Tin Mừng dưới
dấu chỉ là việc mạc khải của Đức Giêsu tại Nadarét; các hoạt động đầu tiên của
Người tại Caphácnaum và Galilê đến tiếp vào (Lc 4,14-5,16). Bên trong đoạn này, tác giả bố trí các hoạt cảnh
theo nhiều cách: ngài cố tình nêu bật Galilê.
Hơn các tác giả Nhất Lãm khác, ngài nhấn mạnh việc Đức Giêsu trở về miền Galilê
“trong quyền năng Thánh Thần” (4,14). Ở 4,44, ngài thay thế Galilê bằng Giuđê,
nhưng để nói về toàn lãnh thổ của người Do Thái ; đứng đầu các thành phố và
làng mạc được loan báo Tin Mừng, ngài đặt Nadarét (4,16); tại Galilê, nơi có
vai trò quan trọng là Caphácnaum (4,31 ; 7,1).
Vậy, chỉ có miền Galilê nằm trong nhãn
quan của Lc ở đoạn này. Chuyển động
không nằm trong việc thay đổi nơi chốn, nhưng trong việc rao giảng về Nước
Trời: Bằng việc hoán chuyển vị trí của câu truyện Nadarét, Lc cho thấy rằng con người và sứ mạng của Đức Giêsu mới là ưu tiên
(Lc 4,13-30 = Mc 6,1-10; Mt 13,53-58).
2.- Bố cục
Sách Bài đọc gộp vào đây hai bản
văn xa nhau ba chương trong TM Lc. Khó mà thấy được ý hướng của sự
ghép nối này; có lẽ các chuyên viên Phụng vụ chỉ muốn nối với nhau hai bản văn
“mở đầu”: mở đầu Tin Mừng theo Lc
(1,1-4) và khởi đầu việc rao giảng của Đức Giêsu tại Nadarét (4,14tt).
Bản văn Phụng vụ có thể chia thành ba phần:
1) Mở đầu Tin Mừng (1,1-4);
2) Tóm: Bắt đầu sứ vụ (4,14-15);
3) Thăm viếng Nadarét (4,16-21):
a) Thăm viếng hội đường
Nadarét (c. 16),
b) Đọc Kinh Thánh (cc.
17-20),
c)
Giảng dạy (c. 21).
3.- Vài điểm chú giải
- Nadarét (16): chính xác là Nadara. Đây là lần duy nhất tác giả Lc gọi quê hương Đức Giêsu bằng cái tên A-ram Nadara (tương tự Mt
4,13), nhưng lại không gọi là “quê hương/quê quán” của Đức Giêsu (khác với Mc 6,1 và Mt 13,54): có lẽ bởi vì Đức Giêsu không sinh ra tại đó (2,4-7),
nhất là bởi vì đối với Lc, “quê
hương” của Đức Giêsu là toàn thể đất Israel (x. cc. 24-27).
- đứng lên đọc Sách Thánh (16): Tác giả Lc cho thấy Đức Giêsu giảng dạy dựa trên
Kinh Thánh. Ta có thể hiểu ngầm rằng ở đây Đức Giêsu đã được ông trưởng hội
đường (archisynagôgos) mời đọc và trình bày một bản văn Kinh
Thánh (như Phaolô và Banaba ở Antiôkhia miền Pisiđia; x. Cv 13,15). Tại Paléttina vào thế kỷ đầu tiên, việc cử hành ngày
sabát tại hội đường dường như gồm có việc hát một thánh vịnh, đọc kinh Shema (Đnl 6,4-9; 11,13-21; Ds
15,37-41) và tơphillâh [lời cầu khẩn]
(hoặc shơmôneh esrêh = “Mười Tám [lời
chúc lành]” và đọc một seder (quyển
nghi thức) hay một pârâshâh trích từ tôrah
(Lề Luật = Ngũ Thư) và một đoạn các Ngôn
sứ (haptârâh; x. Cv 13,15). Sau đó là bài diễn giải các
bản văn Kinh Thánh đã đọc. Cuộc cử
hành chấm dứt bằng lời chúc lành của ông trưởng hội đường và lời chúc lành tư
tế (x. Ds 6,24-26).
Tác giả Lc không nhắc đến bài đọc Tôrah, nhưng phải hiểu là có. Ngài chỉ
quan tâm hơn đến việc ứng nghiệm các lời sấm Đệ II Isaia và cách sử dụng Cựu
Ước theo quan điểm Kitô học.
- cuốn sách ngôn sứ Isaia (17): Người ta yêu cầu
Đức Giêsu đọc một đoạn Ngôn sứ
bằng tiếng Hípri. Tác giả không nói đến Targum, tức dịch bản Hípri ra tiếng
Aram, nhưng có thể giả thiết là có, vì vào lúc ấy, người Do Thái dùng tiếng Aram chứ không còn hiểu tiếng
Hípri nữa. Sự kiện người ta “trao cho” Đức Giêsu cuốn sách Isaia cho hiểu rằng người ta quy định phải đọc một đoạn văn Isaia, tức là có một chu kỳ các
bài đọc Ngôn sứ cũng như các bài đọc Lề Luật. Nhưng dường như người đọc có
thể chọn (x. câu 17b).
- Thần Khí Chúa ngự trên tôi (18): Bản văn trích Đệ II Isaia trong Lc là một đoạn tổng hợp Is
61,1a.b.d; 58,6d; 61,2a. Hai câu bị bỏ là Is
61,1c ở cuối Lc 4,18 (“băng bó những
tấm lòng tan nát”) và Is 61,2b ở cuối
Lc 4,19 (“một ngày báo phục của Thiên
Chúa chúng ta”). Bỏ Is 61,1c thì
không có hậu quả gì đáng kể, nhưng bỏ Is
61,2b là cố tình bỏ đi một phương diện tiêu cực của sứ điệp II Is.
- vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi (18): Bản văn cho thấy
là chính Thiên Chúa đã cử Thánh Thần xuống trên Đấng Mêsia như một chất
dầu xức cho Đấng Mêsia, hầu Người lên đường thi hành sứ mạng cứu thế.
- để tôi loan báo Tin Mừng (18): Bản văn Is Hy Lạp không rõ là “để loan báo Tin
Mừng” là mục tiêu của “Chúa đã xức dầu” hay là mục tiêu của “Người đã sai tôi”.
Giáo sư Fitzmyer dịch theo bản gốc Hípri, “he has sent me to preach good news
to the poor” (dịch sát là “to announce good news to the poor he sent me”).
- người giúp việc hội đường (20): Ngoài ông trưởng
hội đường (archisynagôgos), còn có các nhân viên là “các kỳ mục” (prebyteroi,
Lc 7,3) và “các người giúp việc”
(“người cán sự”, NTT) (hypêretês, Cv
13,5) giống như “ông từ nhà thờ, người phụ trách phòng thánh”.
- ngồi xuống (20): Khi đọc Kinh Thánh, người ta đứng; còn khi trình bày ý nghĩa bản văn (logos
paraklêseôs, Cv 13,15), người ta
ngồi.
- chăm chú nhìn Người (20): Động từ atenizein
là động từ Lc ưa chuộng (x. Lc 22,56; Cv 1,10; 3,4.12; 6,15; 7,55; 10,4; 11,6; 13,9; 14,9; 23,1). Thường
động từ này diễn tả sự trân trọng và tin tưởng (là điểm của bản văn này).
- Hôm nay
(21; HL. sêmeron, x. 2,11 [Giáng
sinh]; 3,22 [phép Rửa]; 4,21; 5,26 [người bại liệt]; 13,32-33; 19,5.9 [Dakêu];
23,43 [người trộm lành]): Đây là từ ngữ quan trọng của Lc, có nghĩa là:
Sau một thời gian dài chờ đợi và hy vọng, lịch sử cứu độ đã tới đỉnh cao hoàn
tất. Tất cả những gì các ngôn sứ nói đã thành sự trong các hành động và các lời
nói của Đức Giêsu (x. 4,18.19; 5,26; 19,9).
- đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh (21): Kiểu nói này
tương ứng với kiểu nói “thời kỳ đã mãn của Mc
1,15. Hôm nay, niềm an ủi cho Sion lại được gửi đến cho dân Thiên Chúa (x. Lc 2,25; 7,22).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Mở đầu Tin Mừng (1,1-4)
Lời
mở này phù hợp với quy tắc viết thời tác giả Lc. Qua đoạn văn ngắn ngủi này, chúng ta biết về phương pháp làm
việc của tác giả. Hôm nay chúng ta thừa kế vốn hiểu biết về Đức Giêsu từ bao
thế hệ. Các thông tin được những con người có lương tâm đánh giá, cân nhắc rồi
viết ra. Như thế, đức tin chúng ta không dựa trên những chuyện hoang đường hoặc
những chuyện ngụ ngôn do tưởng tượng, nhưng chủ yếu dựa trên các sự kiện lịch
sử được đảm bảo bởi các chứng nhân thà đổ máu ra chứ không chịu phủ nhận các sự
kiện ấy.
* Tóm: Bắt đầu sứ vụ (4,14-15)
Trong
khi các TMNL liên kết khởi đầu sứ vụ
công khai của Đức Giêsu với việc Gioan Tẩy Giả bị tù (Mc 1,14; Mt 4,12), Lc lại bắt đầu Tin Mừng của ngài bằng một
tóm tắt; còn chuyện Gioan bị tù đã được ngài đưa lên phía trước (3,19-20).
Đoạn tóm tắt này cho một cái nhìn tổng quát trên sứ vụ của Đức Giêsu tại
Galilê (những tóm tắt: 4,31-32.40-41; 6,17-19; 8,1-3; 19,47-48; 21,37-38). Tuy
đoạn tóm này không nhắc tới nội dung lời rao giảng của Đức Giêsu về Nước Thiên
Chúa hay lời lêu gọi hoán cải, bản văn vẫn chứa ba nét đặc trưng của Lc: (a) Một leitmotiv là “quyền năng
Thần Khí” (c. 14). (b) Hoạt động của Đức Giêsu được mô tả trước tiên như một
việc “giảng dạy” (c. 15); ta hiểu Đức Giêsu “giảng dạy” dưới quyền năng
Thần Khí. (c) Tính phổ quát vẫn được Lc
nhấn mạnh nơi câu “được mọi người tôn vinh”.
* Thăm viếng Nadarét (4,16-21)
Sau
đó, Đức Giêsu “đến Nadara, là nơi Người sinh trưởng”. Theo thói quen, Người đi
vào hội đường ngày sabát. Qua vài câu đó, Lc
nhắc lại những gì ngài đã kể thuộc thời thơ ấu của Đức Giêsu (x.
2,39-40.51-52). Thành này được ngài gọi một lần duy nhất ở đây là
Nadara, nhưng không được gọi là “quê hương” của Đức Giêsu, có thể vì Đức Giêsu
không chào đời tại đây, hoặc đúng hơn,
bởi vì ngài coi cả đất Israel là “quê hương” Đức Giêsu (x. cc. 24-27). Trong cuộc
cử hành, Người đứng lên để đọc Sách Thánh (c. 16). Theo tập tục, Người đứng lên
sau bài đọc Lề Luật (Ngũ Thư) để đọc một đoạn sách các
Ngôn sứ. Dường như vào thời Đức
Giêsu, người ta không quy định rõ một chương trình đọc các bản văn Ngôn sứ. Do đó, Đức Giêsu đã chọn đọc Is 61. Bản văn được Lc ghi lại là Is 61,1-2
theo Bản LXX, với một vài sửa đổi.
Đối với các thính giả
của Đức Giêsu, bản văn này là lời của một ngôn sứ, mà họ có thể nói là
Người Tôi tớ Đức Chúa với bốn Bài ca trứ danh (Is 42,1-7 có những gặp gỡ rất gần với Is 61,1). Ngài loan báo một năm hồng ân có thể so sánh với
năm đại xá theo luật Môsê (Lv
25,8-17), nhưng ở đây không phải là con người nhưng chính Thiên Chúa sẽ can
thiệp với ân sủng của Ngài. Còn tự do mà Ngài loan báo không phải là việc tha
hoàn toàn các món nợ giữa người Do Thái
với nhau, mà là một ơn cứu độ tuyệt vời thuộc về thời cánh chung,
cũng có thể gọi là Nước Thiên Chúa, một thời đại được nồng nhiệt chờ
mong.
Nghe
đọc đoạn sách ấy, niềm hy vọng bùng lên trong các con tim, và tất cả các thính
giả của Đức Giêsu chờ đợi bài giảng minh giải bản văn đầy hứa hẹn ấy.
“Người
bắt đầu nói với họ: «Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe»”
(4,21). Qua câu này, Đức Giêsu cho thấy chiều hướng của bài giảng của Người.
Người sẽ hiện tại hóa nơi bản thân Người
nội dung của lời sấm Người vừa đọc. Khi làm như thế, Người đã xử sự như ngôn sứ.
Từ ngữ đầu tiên rất hệ
trọng: sự hiện diện của Đức Giêsu chính là một giai đoạn độc đáo trong
thời gian cứu độ, được diễn tả bằng “hôm nay”. Đức Giêsu áp dụng sấm ngôn Is cho chính mình. Khi chịu phép rửa,
Người đã nhận lấy Thánh Thần như một việc xức dầu đã đưa lại cho Người
phận vụ thánh thiêng là làm Đấng Mêsia. Nhưng Người không phải là một Mêsia
như một vị vua trần thế; để tránh hiểu lầm, Đức Giêsu không xác định
công khai Người là Đấng Mêsia (x. 4,41) và chỉ mạc khải như thế cho riêng các
môn đệ (9,18-21). Tại Nadarét, vào lúc bắt đầu sức mạng, Người chỉ nhận mình là
như vị ngôn sứ mang Tin Mừng cứu độ. Bản văn Is có lẽ đã cung cấp cho Người dung mạo Người Tôi Tớ của Đức Chúa (Yhwh), và chắc chắn các đề tài cốt yếu
của Tin Mừng của Người: ưu tiên cho người nghèo, giải phóng những kẻ bị giam
cầm và những người bị áp bức, cho người mù được thấy. Những từ ngữ này cho thấy
Đức Giêsu chiếu cố đến những người thấp hèn. Nhưng các từ ngữ này còn cho thấy
rõ hơn nữa các đòi hỏi và các ân huệ của Người: kêu gọi làm tâm hồn nghèo hèn,
hứa ban sự giải phóng cho những người tội lỗi đang bị sự dữ khống chế, ban khả
năng nhìn cho những ai sẽ đi đến với với đức tin (trong cách giải thích cái
nhìn theo nghĩa “thiêng liêng” này, Đức Giêsu trung thành với tư tưởng của Is 29,18-19 và 35,5-6).
Trong Is 61,2, vị ngôn sứ vừa công bố một năm
hồng ân, vừa loan báo ngày báo phục; đây là đề tài truyền thống của các ngôn sứ
liên quan đến Ngày của Đức Chúa, một ngày vừa là ngày phán xét vừa là
ngày cứu độ. Đức Giêsu không nói đến phán xét. Thật ra sau này Người có ám chỉ
nhiều đến phán xét (x. Lc 6,20-26;
9,26; 10,12-15; 11,30-32; 12,8-9; 12,35-48.49-59; 13,23-30; 16,1-8; 17,1-2;
17,22-37; 18,8; 19,11-27), còn ở đây Người chỉ nhìn đến đến sứ mạng trần thế
của Người, là “thời gian” ơn cứu độ được ban cho Israel; chính thời gian này
được Người gọi là “năm hồng ân của Đức Chúa”, thời gian Thiên Chúa chiếu cố đến
dân. Nói tóm, tư tưởng của Đức Giêsu ở đây trong Tin Mừng Lc giống với lời Đức Giêsu loan báo trong Mc 1,15 và Mt 4,17, “Nước Trời đã đến gần”, người ta có thể đi vào Nước Thiên
Chúa nhờ sứ mạng của Đức Giêsu. Tuy nhiên, công thức của Lc chính xác hơn: nó phân biệt
thời gian hoạt động của Đức Giêsu và thời gian hoàn tất cánh chung; nó
xác định chính xác hơn vai trò của Đức Giêsu, các ân huệ và các đòi hỏi của
Người.
Tác giả Lc biết rõ là trước sự cố Nadarét này,
Đức Giêsu đã hoạt động ở Caphácnaum và ngài cũng cho biết như thế (4,14-15;
4,23; x. Cv 1,8). Nhưng ngài vẫn muốn
đặt truyện này vào ngày khai mạc công việc rao giảng của Đức Giêsu và cho thấy
chính Đức Giêsu xác định sứ mạng của Người ngay đầu Tin Mừng. Câu truyện đã xảy ra trong một hội đường: đó là
phương pháp của Đức Giêsu (4,15.33.44; 6,6; 13,10); đó cũng là cách thực hành
của các nhà truyền giáo trong các xứ sở ngoại giáo (Cv 9,20; 13,3.14.44; 14,1; 17,1.10.17; 18,4.7.19; 19,8). Tác giả
muốn cho thấy rằng sứ điệp cứu độ được bao giờ cũng được ngỏ với người Do
Thái trước khởi đi từ Kinh Thánh và trong hành vi phụng tự: Tân Ước hoàn tất Cựu Ước.
+ Kết luận
Qua bản văn Lc, ta thấy Đức Giêsu giới thiệu chương
trình hoạt động của Người: Người là Đấng Mêsia được giới thiệu ở phép rửa nay
xuất hiện trước công chúng như là vị ngôn sứ có quyền năng Thánh Thần; Người sẽ
ưu tiên ngỏ lời với những người nghèo, những người chịu đau khổ, những người bị
áp bức; Người mang đến cho họ sự giải phóng thiêng liêng, cho họ thấy chương
trình của Thiên Chúa. Đối với
5.- Gợi ý suy niệm
1. Sự kiện Kitô giáo chủ yếu dựa trên can thiệp
của Thiên Chúa trong lịch sử cho thấy Kitô giáo khác mọi tôn giáo khác. Thiên
Chúa chúng ta là một Thiên Chúa của các sự kiện, những sự kiện thực hữu;
Ngài không phải là một thần tượng hoặc một tư tưởng thuần túy. Vị
Thiên Chúa này lại rất quan tâm đến con người đến độ đi vào trong lịch sử cụ
thể của con người. Chính vị Thiên Chúa này hôm nay vẫn đang kêu gọi chúng ta
qua Đức Giêsu, con người cụ thể làng Nadarét.
2. Ngay từ đầu, Đức Giêsu liên kết hoạt động
của Người với Kinh Thánh, với Lời
Chúa. Người khẳng định mạnh mẽ rằng nhờ Người, Thiên Chúa hoàn tất các lời Ngài
đã hứa. Như thế, ngay từ đầu đã có câu trả lời về uy quyền của Đức Giêsu, nghĩa
là về quyền bính đang đứng đàng sau Người: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi”. Đức
Giêsu có sức mạnh và quyền năng Thiên
Chúa. Người cũng khẳng định rằng Thiên Chúa đã sai phái Người. Lời khẳng định
này có giá trị cho Người hơn là cho bất cứ ngôn sứ nào, bởi vì Người phát xuất
trực tiếp từ Thiên Chúa trong tư cách là Con Thiên Chúa. Bởi vì Thiên Chúa nói
và hành động qua Người, toàn thể công trình của Người là công trình cứu độ và
phải được đón tiếp với lòng biết ơn và lòng tin.
3. Tại sao lại có hoàn cảnh của những người
nghèo, những người đói khát, những người bị hành hạ, những người đau ốm, tuyệt
vọng và mọi kẻ thất thế và phải gánh chịu một số phận gian khổ? Họ không may,
trong khi những người khác được may mắn? Có thể có chăng cho họ việc thay đổi
số phận, hay là họ cứ phải cam chịu như thế? Phải chăng Thiên Chúa muốn như
thế? Đức Giêsu đã loan báo sứ điệp của Người cho những con người như thế. Thiên
Chúa không hất hủi họ. Thiên Chúa ở về phía họ và chiếu cố đến họ. Thật ra sứ
điệp của Đức Giêsu không phải là một chương trình cải cách xã hội. Người
không cổ võ việc phân chia đồng đều các của cải. Sứ điệp của Người hướng niềm
hy vọng của người nghèo không vào của cải vật chất, nhưng vào Thiên Chúa.
4. Tuy nhiên, chúng ta phải ra sức loại trừ các
hoàn cảnh túng quẫn và bất công. Niềm hy vọng Đức Giêsu mang lại không phải là
một ngày nào đó, loài người sẽ đạt tới chỗ loại từ mọi túng quẫn và có
thể thiết lập công lý bình đẳng. Sứ điệp của Ngài nói rằng Thiên Chúa sẽ ban
cho người nghèo ơn cứu độ trọn vẹn. Đàng khác, chỉ nguyên việc là người nghèo,
người sa cơ thất thế, không phải là đã đủ. Một người nghèo mà đặt hết niềm cậy
trông nơi của cải trần thế thì vẫn đang lạc đường. Hôm nay, Đức Giêsu tiếp tục
công cuộc cứu thế trong Hội Thánh và nhờ Hội Thánh. Người cứu thế qua các bí
tích. Người đến với con người qua các thừa tác viên và qua tất cả các Kitô hữu
đã hưởng nhờ hoạt động từ bi thương xót của Người. Chúng ta phải nối dài hoạt
động của Đức Kitô ra, bằng cách gieo rắc niềm vui và ánh sáng, thoa dịu các nỗi
khốn cùng về thể lý và tinh thần, giải thoát người ta khỏi những nỗi lo sợ
khiến tê liệt, đưa người rta ra khỏi sự dốt nát, nâng đỡ người sống trong cô
đơn, chế giảm các nỗi hiềm khích…
Lm PX Vũ
Phan Long, ofm