LỜI KINH CỦA CHÚA -
HÌNH ẢNH CỦA THIÊN CHÚA
(Lc 11,1-13 – CN
XVII TN - C)
1.- Ngữ cảnh
Trong
bài tường thuật về hành trình lên Giêrusalem, tác giả Luca ghép vào một
giai thoại trong đó Đức Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện, vì các ông xin
Người.
Hình
thức của Kinh Lạy Cha ăn khớp với ngữ cảnh này, vì bản văn được đặt sau lời
kinh Đức Giêsu dâng lên Chúa Cha (Lc
10,21-22), cũng như sau “ví dụ” của Người về tình thương đối với người thân cận
(10,29-37) và việc Người nhấn mạnh trên việc lắng nghe Lời như điều cần thiết
duy nhất (10,38-42). Toàn khối các giai thoại này giới thiệu cho biết thái độ
và những tâm tình người Kitô hữu phải có đối với Thiên Chúa.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Dẫn nhập: Hoàn cảnh (11,1);
2) Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha
(11,2-4);
3) Đức Giêsu dạy cầu
nguyện bằng hai dụ ngôn (11,5-13):
- Dụ ngôn Người bạn
quấy rầy (cc. 5-8),
- Sáu khẳng định (cc.
9-10),
- Dụ ngôn Người cha và
đứa con (cc. 11-13).
3.- Vài điểm chú giải
- Lạy Cha (2): Tác giả chỉ dùng hô-cách Hy Lạp
đơn giản: pater (x. 10,21), tương đương với từ A-ram ’abbâ’. Do
chỗ từ này được lưu giữ trong Mc
14,36 (x. Gl 4,6; Rm 8,15), có thể cho rằng kiểu thưa gửi
trong bản văn Lc thì “gốc” hơn kiểu trong Mt (với công thức “Lạy Cha chúng con, Đấng ngự trên
trời”).
Một
số tác giả như Kittel, Jeremias và Marchel nghĩ rằng đây rất có thể là một từ
ngữ của các em bé[1].
Còn Pitta thì cho rằng không phải chỉ có các em bé mới dùng từ này mà thưa với
cha, nhưng cả người lớn cũng dùng để ngỏ lời với cha[2].
Dù sao, vào thế kỷ i, từ này
không chỉ được dành cho trẻ em.
Gọi
Thiên Chúa là “Cha” không phải là chuyện lạ lùng. Danh xưng “cha” đã có nơi các
tôn giáo rất khác nhau, từ dạng thô sơ nhất đến dạng phát triển nhất, của người
Hy Lạp, Rô-ma và Sê-mít. Nhưng điều lạ là sử dụng một danh xưng thân mật
để thưa với Thiên Chúa. Theo các nghiên cứu của Jeremias và Marchel, ’abbâ’ là một danh xưng thân mật, nên không bao giờ được người
Do Thái dùng mà thưa với Thiên Chúa. Đôi khi, cũng rất hiếm, từ này được dùng
để nói về Thiên Chúa, chứ không bao giờ để thưa với Thiên Chúa.
Và ngay cả nói về Thiên Chúa, các bản Targumim (= Bản dịch và diễn giải) cũng
rất ngại áp dụng danh hiệu “cha” cho Ngài. Ngược lại, theo chứng từ của Mc 14,36, được củng cố gián tiếp bởi Gl 4,6, Đức Giêsu là người đầu tiên thưa với Thiên Chúa bằng tiếng
gọi thân mật Abba, và như thế Người
tỏ cho thấy quan hệ thân tình như là người con với Thiên Chúa, một thứ
quan hệ kiểu mới mẻ và duy nhất, vô song[3]. Quan hệ này được diễn tả rõ ràng trong
một vài bản văn Tin Mừng, đặc biệt trong Mt 11,27 // Lc 10,22. Tin Mừng IV triển khai các phương diện
khác nhau của quan hệ hỗ tương này, một quan hệ được vén mở cho thấy
không những bằng các lời nói, mà hơn nữa còn bằng công trình chung giữa Chúa
Cha và Chúa Con; và công trình chung này đạt tới đỉnh cao khi Đức Giêsu hiến
mình trên Núi Sọ. Tin Mừng làm chứng về hai điều: 1) Quan hệ của Đức Giêsu với
Thiên Chúa là quan hệ có một không hai, không thể so sánh với bất cứ kiểu tương
quan nào; quan hệ này hoàn hảo, thâm sâu, hỗ tương; theo nghĩa này, quan hệ này
chuyên nhất (x. Ga 10,30); 2) Tuy
nhiên, theo một nghĩa khác, quan hệ này không độc chiếm, nhưng lại có
khả năng thông ban, thông dự vào (x. Ga
6,57; 10,27-28). Đức Giêsu đến chỉ nhắm một mục tiêu là đưa loài người
vào trong tương quan cha con với Thiên Chúa. Và bởi vì quan hệ này không phải
là một tương quan bên ngoài như một liên hệ pháp lý, mà là một
thực tại thâm sâu, người ta không thể thông dự vào đó nếu không được một
sự thông truyền tinh thần. Vậy toàn thể cuộc sống của Đức Giêsu, sứ vụ, cái
chết, sự sống lại của Người chỉ có một mục đích là thông ban Thánh Thần
trong tư cách là Thần Khí của Con (x. Gl
4,6). Quả thật, Đức Giêsu là người đầu tiên cầu nguyện với Thiên Chúa bằng danh
hiệu này. Nhưng bây giờ, nhờ Thần Khí của Con, mỗi tín hữu cũng có thể làm như
thế: là con (x. Gl 3,26;
4,6.7), người tín hữu thông dự vào lời cầu nguyện của Chúa Con.
- xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển (2): dịch sát là “Ước
gì Danh Cha được hiển thánh”. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, câu này không có nghĩa
là Thiên Chúa phải bận tâm làm cho loài người coi Danh của Ngài là thánh và
không làm ô nhục Danh Ngài. Câu này có nghĩa là chính Thiên Chúa phải thánh hóa
Danh Ngài; chính Ngài phải hành động cách nào để loài người nhận biết và tuyên
xưng đúng như Tên Ngài, tức là như Thiên Chúa và như Cha. Như thế, là xin Thiên
Chúa mạc khải bản thân Ngài ra vĩnh viễn và cho người ta được thấy Ngài và đến
được với Ngài cách chắc chắn.
-[xin làm cho] Triều Đại Cha mau đến (2): Đây là nội dung chính
của lời Đức Giêsu loan báo. Người loan báo Tin Mừng về Triều Đại Thiên Chúa, về
quyền chúa tể của Thiên Chúa (4,43; 8,1; 10,9.11): Thiên Chúa là Chúa Tể duy
nhất và tốt lành, sẽ thực hiện công khai vương quyền của Ngài. Lời xin này cầu
mong mau đến lúc Thiên Chúa sẽ hiển trị trên tất cả mọi sự cách công khai và
hữu hình; Đấng là Cha sẽ là Chúa Tể duy nhất.
- ngày nào có lương thực ngày ấy (3): dịch sát là “Xin ban cho chúng con
mỗi ngày (to kath’ hêmeran)”, hiểu theo nghĩa phân phối.
- xin tha tội (4): Tác giả Lc
đã thay từ opheilêmata, “các món nợ”, bằng hamartias, “các
tội”, có lẽ để cho độc giả Kitô hữu gốc
Dân ngoại dễ hiểu lời xin này hơn.
- bạn (5): Từ ngữ philos được dùng nhiều lần
khiến chúng ta nhớ đến bối cảnh là lòng hiếu khách của người dân Cận Đông.
“Bạn” vừa có nghĩa là người láng giềng và người khách.
- anh ta cứ lì ra đó (8): Anaideia,
“sự trâng tráo, lì lợm”. Có tác giả nghĩ rằng từ này áp dụng cho người bạn bị
quấy rầy, nên phải dịch là “thể diện”[4]. Nhưng
giải thích như thế không đúng, vì: cả câu 8 dịch sát là: “dẫu anh không dậy để
cho người này (autô) vì là bạn của người này (autou), thì cũng vì
sự lì lợm của người này (autou), anh sẽ dậy để cho người này (autô)
tất cả những gì người này cần”. Bởi vì đại từ sở hữu autô và tính từ sở
hữu autou[5]
được dùng để chỉ người đến quấy rầy, nên phải hiểu anaideia áp dụng
cho người quấy rầy.
- tất cả những gì anh ta cần (8): nghĩa là không
phải chỉ cho những gì anh ta xin mà thôi.
- anh em cứ xin thì sẽ được (9): Đây là một thái
bị động thay tên Thiên Chúa, nên có nghĩa là: “Anh em cứ xin, thì sẽ được Thiên
Chúa ban cho”.
- cứ tìm thì sẽ thấy (9): Do câu này song
song với câu trên, ta hiểu là “sẽ thấy, với sự trợ giúp của Thiên Chúa”.
- thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó (11): Hiểu là có sự
giống nhau về bề ngoài giữa con cá và con rắn. Thỉnh thoảng các ngư phủ trên Hồ
Ghennêxarét dùng cá nhỏ mà câu rắn nước.
- xin trứng lại cho nó bò cạp (12): Một con bò cạp
cuộn càng và đuôi lại thì giống với một quả trứng.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Dẫn nhập: Hoàn cảnh (1)
Vào thời xa xưa, đặc
tính của các nhóm tôn giáo được xác định không những bởi các chân lý họ tin vào
và bởi những luật lệ họ tuân giữ, mà còn bởi các lời cầu nguyện của họ nữa.
Gioan Tẩy Giả đã dạy các môn đệ ông cầu nguyện. Một hôm, có người môn đệ đã xin
Đức Giêsu dạy cầu nguyện.
Tác giả Lc ghi nhận rằng người ấy xin khi Đức
Giêsu vừa cầu nguyện xong. Nếu cầu nguyện là một việc xin các ân huệ, thì Đức
Giêsu không cần cầu nguyện. Nhưng cầu nguyện không phải là một hình thức ăn xin. Chúng ta không xin Thiên Chúa
thay đổi tâm trí của Ngài, nhưng xin Ngài giúp hiểu Ngài muốn gì, để chúng ta
nhận điều đó làm ý mình, và xin Ngài ban sức lực mà thực hiện điều ấy. Đức
Giêsu cũng cần lời cầu nguyện kiểu này.
* Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha (2-4)
Kinh Lạy Cha không chỉ
là một công thức cầu nguyện, nhưng là một tổng hợp toàn thể sứ điệp Kitô giáo.
Trong Hội Thánh sơ khai, các tín hữu thường được giám mục dạy trực tiếp kinh
này. Lời cầu nguyện phản ánh nội dung đức tin chúng ta và loại thần minh chúng
ta tin vào.
Không phải chỉ cầu
nguyện là đủ, người ta còn phải biết cách cầu nguyện. Do đó, Đức Giêsu đã ban
cho các ông bản văn một kiểu mẫu cầu nguyện. Điều này không có nghĩa là
các ông phải luôn luôn dùng những lời này mà thôi. Nhưng với người nào dùng lời
kinh này, người ấy được xác định cho biết bầu khí phải quan tâm khi cầu nguyện
và được nhắc đến những lời thỉnh cầu phải coi là quan trọng nhất .
“Khi cầu nguyện, anh em hãy nói : Lạy Cha” (c. 2). Trong cầu
nguyện, quan trọng nhất là biết bản chất của tương quan giữa Thiên Chúa và loài
người. Thế mà chúng ta không thấy Thiên Chúa và tự mình không thể biết là Ngài
đang tương quan với chúng ta thế nào. Ngài vô hình, xa cách, rất lạ với ta, ta
không thể hiểu Ngài và khám phá Ngài cặn kẽ. Phải chăng Thiên Chúa là một Chúa
tể quyền lực, có thể nhậm lời ta cầu xin, nhưng Ngài không hề quan tâm đến ta?
Lời xin đầu tiên và căn bản nhận được câu trả lời nơi lời đầu tiên của Đức
Giêsu: chúng ta phải ngỏ lời với Thiên Chúa như với một “Người Cha”.
Thiên Chúa không phải là một Chúa tể xa cách, xa lạ, quyền lực, không
muốn biết gì về chúng ta. Ngài đã giao tiếp với chúng ta với mối quan tâm, tình
yêu và sự chăm sóc, như một người cha đích thực. Chúng ta có thể đi
thẳng đến với Ngài.
Đức
Giêsu phác ra những nét chính để dạy chúng ta biết phải cầu nguyện với Thiên
Chúa thế nào. Theo kiểu mẫu của Người, chúng ta thấy có hai khối lời cầu xin.
Khối thứ nhất liên hệ trực tiếp đến Thiên Chúa, khối thứ hai liên hệ đến chúng
ta và các nhu cầu của chúng ta. Lời cầu “xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển”
(c. 2) không có nghĩa là xin cho có nhiều người hoan hô Ngài; danh thanh Ngài
được tôn vinh khi ơn cứu độ của Ngài đạt đến chúng ta, khi can thiệp cứu độ của
Ngài đến nơi bản thân chúng ta và đến trong thế giới. Chúng ta biết lồi xin này
đã đực chấp nhận, cho dù chưa biết vào ngày giờ nào, ơn cưu độ này nên trọn
vẹn. Lời cầu thứ hai, “Triều Đại Cha mau
đến”, xin Thiên Chúa thực hiện chương trình của Ngài, xin Ngài tỏ quyền Chúa Tể
trên mọi sự. Nói chung, hai lầu cầu đầu tiên xin cho có cuộc đảo lộn các tương
quan hiện hữu, trong đó Thiên Chúa dường như vắng mặt hoặc ẩn mình. Chúng ta
xin Ngài trở nên hữu hình và tỏ ra là Chúa Tể duy nhất mãi mãi.
Khối lời thỉnh cầu
thứ hai liên hệ đến các nhu cầu cấp bách nhất của chúng ta: các nhu cầu vật
chất (cái ăn cái uống, y phục, nhà cửa) và các nhu cầu thiêng liêng. “Xin Cha
cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy” (c. 3). Chẳng lẽ chúng ta không
tìm ra những thứ ấy bằng cố gắng riêng sao? Chúng ta cầu xin những thứ đó là để
nhớ rằng chúng ta phải tìm cơm bánh không chỉ cho chính mình, mà còn cho tất cả
mọi người. Cầu nguyện củng cố nơi chúng ta một thái độ mới và một quyết tâm mới
là sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Bên cạnh các nhu cầu vật chất, là các nhu cầu
thiêng liêng: “xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha” (c. 4).
Thiên Chúa đã ban cho chúng ta trách nhiệm, nhưng chúng ta thường xuyên sống vô
trách nhiệm, trở thành có lỗi trước mạt Thiên Chúa, chúng ta phạm những thiếu
sót đối với người thân cận. Chúng ta không thể tự mình tha các lỗi cho mình.
Chúng ta lệ thuộc sự tha thứ của Thiên Chúa nên phải xin Ngài ban cho. Thêm vào
lời cầu xin này, Đức Giêsu nối câu: “vì chúng con cũng tha cho mọi người mắc
lỗi với chúng con” (c. 4). Người nhắc chúng ta nhớ rằng chúng ta không thể nhận
được ơn tha thứ của Thiên Chúa nếu chúng ta có một tâm hồn đầy cay đắng
và hiềm khích (x. Mt 18,23-35).
Cuối cùng, chúng ta
xin Thiên Chúa chiếu cố đến sự yếu đuối và mỏng dòn của chúng ta: “Xin đừng để
chúng con sa chước cám dỗ” (c. 4). Trước nhan Thiên Chúa, chúng ta nhìn nhận
mình không có sức để đứng vững trong thử thách để trung thành với Ngài. Do đó,
chúng ta khiêm tốn xin Ngài trợ giúp, đồng thời diễn tả ước muốn được mãi mãi
liên kết với Ngài.
* Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng hai dụ ngôn
(5-13)
Sau đó, bằng hai dụ
ngôn và sáu khẳng định, Đức Giêsu còn muốn thuyết phục các môn đệ rằng họ có
thể cậy dựa vào lòng nhân lành của Thiên Chúa, tức là tin rằng Ngài sẽ nhận lời
họ cầu xin. Với hai dụ ngôn, Đức Giêsu vận dụng các hoàn cảnh và kinh nghiệm
của loài người để dạy dỗ.
Dụ ngôn thứ nhất vận
dụng những tương quan hàng xóm láng giềng ở miền quê: Nếu một người hàng
xóm bị quấy rầy còn sẵn sàng giúp đỡ người bạn, chẳng lẽ Thiên Chúa vô cùng tốt
lành và không hề có giờ nào không thuận tiện lại không nghe lời con cái Ngài
kêu xin?
Trong dụ ngôn thứ hai,
Đức Giêsu vận dụng cách thức xử sự của người cha trần thế với con cái: Nếu ngay
trong lãnh vực con người, một người cha, tuy có những khiếm khuyết, còn
biết cho con cái những của tốt lành, chẳng lẽ Thiên Chúa là “Cha”, Đấng có mọi
tình phụ tử, lại không xử sự hơn thế sao?
Cách thức Đức Giêsu dạy
chúng ta cầu nguyện cho hiểu rằng Người biết và luôn chiêm ngưỡng Thiên Chúa.
Dựa trên cái nhìn này, Đức Giêsu mời chúng ta cầu nguyện tha thiết, Người hứa
với chúng ta rằng chắc chắn chúng ta sẽ được nhận lời (cc. 9-10). Chúng ta
không có kinh nghiệm về điểm này bởi vì chúng ta không biết cách cầu nguyện.
Cầu nguyện là đi ra khỏi bóng tối của các tư tưởng và đam mê của chúng ta và để
cho mình được thu hút vào trong Thiên Chúa. Mắt chúng ta sẽ mở ra và chúng ta
sẽ nhìn thấy các sự viêc khác đi, chỉ sau khi đã trò chuyện lâu giờ với Ngài. Ở
bên ngoài, mọi sự vẫn như cũ, nhưng chúng ta thì không còn như trước nữa. Việc
cầu nguyện đã đạt hiệu quả: nó thay đổi con tim chúng ta. Khi đó chúng ta hiểu:
Cho tất cả những ai xin bất cứ điều gì, Thiên Chúa sẽ ban Thánh Thần. Ân ban
này độc lập với nội dung của từng lời cầu nguyện. Thánh Thần là Thần Khí của
Thiên Chúa, Thần Khí liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Ngài là Thần Khí làm cho
chúng ta thành con Thiên Chúa và giúp chúng ta có thể kêu lên “Cha ơi!”.
+ Kết luận
Bởi vì Người biết và
luôn luôn chiêm ngưỡng Thiên Chúa, bởi vì Người cũng biết ý nghĩa và cùng đích
của đời sống chúng ta, Đức Giêsu có thể dạy chúng ta cầu nguyện hơn bất cứ ai
trước Người. Trong Kinh Lạy Cha, Đức Giêsu cung cấp cho chúng ta không những
một bản văn kinh nguyện, mà còn cho một kiểu mẫu về các nội dung
của lời cầu nguyện của chúng ta. Chúng ta được gọi Thiên Chúa là “Cha”: tương
quan của Thiên Chúa với chúng ta là như tương quan của một người cha với
các con mình. Và chúng ta hoàn toàn có thể tin cậy vào lòng nhân lành của Thiên
Chúa. Trong lời cầu nguyện, chúng ta chứng tỏ mình có một hình ảnh về Thiên
Chúa và cảm nghiệm thế nào về Ngài. Trong lời cầu nguyện, chúng ta thể hiện
tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Trong khi cầu nguyện, Đức Giêsu gọi Thiên
Chúa là “Cha” (Lc 10,21; 22,42;
23,34-46), bởi vì Người biết Cha như thế. Lời dạy về cầu nguyện cũng đồng thời
là một lời dạy về đức tin. Chúng ta phải tin rằng Thiên Chúa là Cha
chúng ta và Ngài quan hệ với chúng ta với tất cả sự quan tâm và yêu thương.
Chúng ta phải ngỏ lời với Ngài và dâng lên Ngài những lời thỉnh cầu với đức tin
này. Nếu chúng ta có một ý tưởng đúng về Ngài, chúng ta sẽ trình với
Ngài những lời thỉnh cầu đầy tin tưởng và hy vọng và cậy vào sự giúp đỡ của
Ngài.
2. Đức Giêsu dạy chúng ta phải và có thể cầu
xin cho có những nhu cầu vật chất. Người không bảo chúng ta xin cho có dư thừa.
Lời cầu nguyện Người dạy cũng không thu hẹp lại theo kiểu ích kỷ, Người dạy xin
cho “chúng con”, tức là tất cả những ai đang cầu nguyện.
3. Khi chúng ta xin Thiên Chúa hủy diệt sự dữ,
sự thù ghét, bất công, trả thù, chúng ta đã tự nhắc mình nhờ lại các cam kết
lúc nhận bí tích rửa tội, đó là tận dụng tất cả năng lực chúng ta mà phụng sự
Thiên Chúa, để cho vương quốc công lý, tình yêu và hòa bình mau đến trên trần
gian này. Điều này có nghĩa là chúng ta cầu nguyện không phải là để thay đổi
“lòng dạ” Thiên Chúa, nhưng là để thay long đổi dạ chúng ta, để chúng ta sẵn
sàng chấp nhận hoạt động cứu độ của Ngài.
4. Như người bạn đến xin người láng giềng giúp
cho một nhu cầu, chúng ta cũng phải ngỏ lời với Thiên Chúa không phải vì
những chuyện phù phiếm, nhưng là để trình bày với Ngài những nhu cầu thực tế
của chúng ta và của người khác. Đứng trước Thiên Chúa, chúng ta không cần phải
tìm kiếm hoặc tính toán so đo về các lời lẽ, nhưng chúng ta có thể nói thẳng ra
với Ngài. Và khi cầu nguyện, chúng ta không được mệt mỏi hoặc nản chí. Chúng ta
không được bỏ Ngài, không mong được Ngài giúp đỡ, để rồi đi theo đường mình
cách cam chịu hoặc tự phụ. Chúng ta cứ phải liên kết với Ngài bằng một lời
cầu nguyện kiên nhẫn, đầy niềm tin tưởng và đơn sơ, lặp đi lặp lại và không mỏi
mệt.
5. Đức Giêsu cam kết rằng nếu chúng ta tha
thiết cầu nguyện, chúng ta sẽ được Thiên Chúa
nhận lời. Tuy nhiên, dường như điều này không đúng với kinh nghiệm chúng
ta? Thật ra Đức Giêsu bảo đảm rằng Thiên Chúa chỉ ban những của tốt lành, nhưng
Người không hề bảo đảm là lời cầu nguyện của chúng ta luôn luôn có nội dung là
những ân ban mà chúng ta thấy là tốt lành. Người cha không đưa con rắn cho đứa
con xin cá. Nhưng nếu người con xin một con rắn mà nghĩ rằng đó là điều
tốt, thì người cha, chính vì ông tốt, ông sẽ không nhận lời xin này. Vậy chính
Thiên Chúa phán đoán về các lời thỉnh cầu của chúng ta. Chúng ta không thể qui
định cho Ngài cách thức Ngài phải theo mà nhận lời chúng ta. Chỉ có một điều
là chúng ta chắc chắn rằng Ngài sẽ nhận lời vào lúc tốt nhất cho chúng ta.
6. Không có gì lạ nếu khi dạy chúng ta gọi
Thiên Chúa là “Cha”, Đức Giêsu lại hứa là những ai ngỏ lời với Thiên Chúa sẽ
được Ngài ban Thánh Thần. Nếu chúng ta ngỏ lời với Thiên Chúa trong đức tin,
chúng ta đã đang cầu nguyện trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần rồi. Và khi cầu
nguyện như thế, chúng ta đã sẵn sàng để cho mình được thấm nhuần sâu xa hơn bởi
Thần Khí này, để cho Ngài trở nên sống động trong ta, và càng ngỏ lời với Thiên
Chúa như là Cha chúng ta trong niềm tin tưởng trọn vẹn hơn. Điều quan trọng hơn
mỗi lời xin và mỗi sự nhận lời, đó là tương quan chúng ta thiết lập với Thiên
Chúa trong cầu nguyện. Lời kinh dâng lên với đức tin đã là một sự nhận
lời rồi, bởi vì khi đó dây liên kết chúng ta với Thiên Chúa được đào sâu thêm
và tăng trưởng hơn: Thiên Chúa ban Thánh Thần cho những ai cầu nguyện và đón
tiếp họ vào trong sự hiệp thông ngày càng sống động và thân tình hơn với Ngài.
Lm FX Vũ
Phan Long, ofm
[1] G. Kittel, VAbba/, GLNT, vol. I, col. 15-18; J.
Jeremias, Abba. Studien zu neutestamentlichen Theologie und
Zeitgeschichte (Gưttingen
1966) 15-67; W. Marchel, Abba, Père (Roma 1963, 1971).
[2] A. Pitta,
Lettera ai Romani. Nuova versione,
introduzione e commento (I Libri biblici – Nuovo Testamento 6; Figlie di
San Paolo; Milano 2001) 298.
[3] Cf. Jeremias, Abba, 58-67.
[4] Xem Bản
dịch Kinh Thánh Tân Ước của Nhóm Phiên Dịch CGKPV 1995.
[5] Ở chủ-cách
là autos.