hành trình
đi tỚi niỀm vui
(Luca 13,22-30 – CN XXI TN - C)
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này bắt đầu
phần thứ hai (Lc 13,22–17,10)
trong hành trình lên Giêrusalem Tin Mừng
Luca tường thuật (Lc 9,51–19,28),
trong đó có những lời Đức Giêsu tuyên bố về ơn cứu độ và về việc được nhận hay
không được nhận vào Nước Thiên Chúa. Riêng bản văn 13,22-30 có sự thống nhất
bên trong nhờ những tuyên bố của Đức Giêsu; những tuyên bố này liên hệ rất chặt
chẽ với hai dụ ngôn liên hệ đến Nước Thiên Chúa kết thúc phần thứ nhất (dụ ngôn
Hạt cải, 13,18-19; dụ ngôn Men trong bột: 13,20-21).
Riêng
về hình thức, dường như bản văn này đa tạp, quy tụ nhiều đoạn không cùng chiều
hướng. Chẳng hạn, “cửa hẹp” (Lc
13,24) có ở Mt
7,13-14 (Bài Giảng trên núi); “cửa đóng” (Lc
13,25) kết thúc dụ ngôn mười người trinh nữ trong Mt (25,10-12). Câu trả lời của những người bị loại (Lc 13,26-27)
lại đưa chúng ta về với Mt 7,22-23
(Bài Giảng trên núi). Còn chi tiết nói về bữa tiệc quy tụ mọi người (Lc 13,28-29)
lại chính là cao điểm của truyện chữa lành người đầy tớ của viên sĩ quan có đức
tin rất lớn (Mt 8,11-12).
Nhưng dù thế nào, khi
đưa vào tác phẩm của mình, tác giả Luca
đã làm cho các đoạn văn rời rạc ấy thành một khối có ý nghĩa (chi tiết
“cánh cửa đã đóng” trở thành một dụ ngôn, và tất cả bản văn trở thành
bài trình bày các đòi hỏi phải đáp ứng để được cứu độ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia
thành hai phần:
1) Dẫn nhập vào hoàn
cảnh địa lý và bài giảng (13,22-23);
2)
Những lời đe dọa (13,24-29): Các ý tưởng được liên kết
với nhau bằng từ móc “cửa” (cửa hẹp/cửa khóa):
- cửa
hẹp (c. 24),
- cửa
khóa (cc. 25-27),
- số
phận của những kẻ làm điều gian ác (cc. 28-29),
- câu
tục ngữ kết thúc (c. 30).
3.- Vài điểm chú giải
- Hãy phấn đấu để qua được cửa hẹp mà vào (24): “Qua được cửa
hẹp” nghĩa là qua được cái cửa duy nhất của Nước Thiên Chúa. Đức
Giêsu dùng ngôn ngữ của cuộc tranh tài (agôn) hoặc chiến đấu để nhấn
mạnh rằng cần phải cố gắng để vào được Nước Thiên Chúa. Chúng ta ghi
nhận rằng ở Lc 13,3.5,
Đức Giêsu kêu gọi hoán cải đúng lúc, còn ở đây Người lại diễn tả điều ấy bằng
việc đi qua cửa hẹp.
- Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại (25): Dường như khung
cửa hẹp lại còn bị chủ nhà kiểm soát. Đức Giêsu đã lưu ý về
cửa hẹp, nay lại lưu ý là đừng để đến giờ chót. Ở đây, không rõ chủ nhà
là Thiên Chúa hay là Đức Giêsu.
- Ta không biết các anh từ đâu đến (25) = Ta không biết
các anh là ai.
- Chúng tôi đã từng được ăn
uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy (26): nghĩa là chúng
tôi là những người quen biết và cùng thời với Ngài.
- đến dự tiệc trong
Nước Thiên Chúa (29): Đức Giêsu giới thiệu Nước Thiên Chúa theo kiểu Do Thái: Nước
Thiên Chúa giống như bữa tiệc (x. Is
25,6), tại đó những người được chọn quy tụ chung quanh
các tổ phụ và các ngôn sứ. Tuy nhiên, so sánh với Mt, ta thấy trong
khi Mt gửi lời răn đe
này đến toàn thể người Do Thái (Mt
8,12), Lc lại chỉ nhắm đến các thính
giả cứng lòng tin mà thôi.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Đứng về phương diện phê
bình (quan điểm lịch đại), chúng ta thấy bản văn gồm những ý tưởng thuộc nhiều
ngữ cảnh được liên kết với nhau một cách giả tạo. Tuy nhiên, về phương
diện đồng đại, chúng ta vẫn có thể coi đây là một đoạn
gồm những lời răn đe của Đức Giêsu.
* Dẫn nhập vào hoàn cảnh địa lý và bài giảng
(22-23)
Tác
giả Lc cho thấy Đức Giêsu vẫn rất
lô-gích và cương quyết. Người vẫn đang thi hành nhiệm vụ và đi
tới định mệnh của Người. Người loan báo sứ điệp từ làng này sang làng
khác, đồng thời Người đến gần Giêrusalem, là nơi định mệnh đang chờ Người (x. Lc 13,33).
Người không để mình bị lạc hướng trước những đe dọa của vua Hêrôđê (13,31-33). Người trả lời chắc nịch cho những
cầu hỏi được đặt ra. Người nói lên cả những sự thật
khó nghe. Người không hề muốn lừa dối hoặc đẩy ai vào
ảo tưởng.
Câu hỏi “Thưa Ngài,
những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” chạm thẳng vào tư cách của
Người là Đấng Cứu thế (x. 2,11). Vậy
có bao nhiêu người sẽ đạt được mục tiêu nhờ trung gian của Người? Đức Giêsu không trả lời trực tiếp vào câu hỏi, Người không nêu ra
con số những người được cứu độ. Người muốn đưa cái
nhìn của các thính giả về những gì cần phải làm. Người
bảo cho chúng ta biết cách đi vào Nước Thiên Chúa, tức là lúc này phải trở
thành môn đệ.
* Những lời đe dọa (24-29)
Chỉ có một cách duy
nhất: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết : có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được” (c.
24). Khi nói về cửa hẹp, Đức Giêsu không có ý nói rằng tại “cửa ra vào” đời
sống vĩnh cửu, có một đám đông huyên náo, và người ta đang chen lấn
nhau. Người muốn nói rằng người ta phải cố gắng nhiều, phải
chiến đấu. Không phải chỉ có ý muốn là đủ. Chắc chắn chúng ta không thể tự cứu mình bằng sức riêng, nhưng kết
quả này không xảy đến nếu không có phần đóng góp của chúng ta, nếu chúng ta chỉ
có một thái độ thụ động. Bởi vì làm thế nào để
đi qua một cửa hẹp, nếu không phải bằng cách làm cho mình nhỏ lại? Một người to lớn không thể đi qua một cửa hẹp. Đức Giêsu đang bảo chúng ta rằng chúng ta không thể trở thành môn
đệ của Người nếu chúng ta không buông ra cao vọng muốn thống trị kẻ khác.
Nếu chúng ta không trở thành tôi tới mọi người, chúng ta sẽ
không bao giờ vào được, cho dù chúng ta có cầu nguyện nhiều.
Rồi
Đức Giêsu cho chúng ta một dụ ngôn. Một người tổ chức moat bữa tiệc và mời mọi
người, với điều kiện họ phải đi qua khung cửa hẹp. Mọi người
cố gắng đi vào, có người thì lọt, có người thì không. Đến
một lúc nào đó, chủ nhà cho đóng cửa. Dựa vào Isaia (Is 25,6), có thể hiểu chủ nhà là Thiên Chúa. Khi
nói về cái cửa đã đóng kín, Đức Giêsu muốn nói rằng chúng ta phải cố gắng đúng
lúc. Chúng ta phải ý thức rằng thời gian của chúng ta
có giới hạn. Chậm nhất là với cái chết, cánh cửa sẽ
được đóng lại và số phận chúng ta sẽ được quyết định. Lúc
đó, có muốn vào, có gọi, có gõ cửa, cũng đã muộn rồi.
Ở bên ngoài, có những
người muốn được vào, họ nói: “Chúng tôi đã từng được ăn
uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của
chúng tôi” (c. 26). Ông chủ đã gọi họ là “những quân làm điều
bất chính”. Trong thực tế, họ biết Đức Giêsu, họ đã nghe Người giảng, đã
ăn uống với Người. Họ không phải là
những người ngoại giáo. Như vậy, chúng ta hiểu là chỉ mang tên “môn đệ”
Đức Giêsu mà thôi thì không đủ; chúng ta còn cần có những hành vi tốt lành. Chỉ hiệp thông với Thiên Chúa
ở bề ngoài mà thôi, thì không đủ. Chỉ đã biết Ngài,
nghe các giáo huấn của Ngài, thì không đủ. Hiệp thông
với Ngài trước tiên là hiệp thông với ý muốn của Ngài.
Sau
đó, Đức Giêsu không nói đến con số những người được cứu, nhưng phác cho biết
cộng đoàn những người được cứu độ thì như thế nào. Thuộc
về cộng đoàn này là các tổ phụ
Ai
không cố gắng đúng lúc với hành động công chính, thì tự loại mình, không nhận
được ơn cứu độ. Hậu quả là phải “khóc lóc nghiến răng” (c. 28): khi nhận ra những
gì mình đã mất, người ấy sẽ cảm thấy đau đớn khôn nguôi và giận dữ khủng khiếp.
+ Kết luận
Tin Mừng của Đức Giêsu
không nói với chúng ta những điều làm cho chúng ta vui lòng, cũng không hứa với
chúng ta một cuộc sống dễ dàng, không cần cố gắng. Tin
Mừng ấy có hàm chứa một số chân lý gây phiền toái. Nhưng chính
bởi vì Tin Mừng này không giấu giếm chúng ta điều gì cả, chính bởi vì Tin Mừng
này trình bày chân lý trọn vẹn, Tin Mừng này mới chỉ cho chúng ta con đường
thật đưa tới niềm vui. Cũng chính vì thế mà Tin Mừng này là
Tin Mừng và chúng ta chỉ có thể đón nhận với lòng biết ơn và ngoan ngoãn.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Tuy Thiên Chúa là Đấng cứu độ chúng ta,
nhưng Ngài coi trọng chúng ta là những nhân vị có tự do, có trách nhiệm. Do đó,
chúng ta phải cố gắng, phải chiến đấu: Thiên Chúa cứu chúng ta, nhưng Ngài muốn
rằng chúng ta cũng muốn chinh phục sự hiệp thông với Ngài. Chúng ta cố gắng có
nghĩa là chúng ta ý thức và cương quyết đến gần Ngài, thắng vượt các trở ngại
và để tất cả mọi sự khác sang một bên.
2. Thời gian được dành cho chúng ta có giới
hạn, nên chúng ta không thể sử dụng như là chủ thời gian. Ngay
từ đầu, chúng ta phải lên đường tiến về với Thiên Chúa. Chúng ta không
thể sống một cuộc đời theo sở thích riêng, rồi
chờ đến tuổi già mới lo cho việc cứu độ linh hồn. Bởi vì không phải chúng ta là
người đóng cửa, mà là Thiên Chúa; do đó phải luôn luôn sẵn sàng.
3. “Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những
quân làm điều bất chính!”. Đây là lý do khiến chủ nhà
không muốn liên hệ gì nữa với những người ở ngoài. Sự cố
gắng, định hướng đúng thời đúng buổi về Thiên Chúa phải được diễn tả ra bằng
hành động, bằng việc thi hành ý muốn của Ngài. Ai không quy hướng về ý
muốn của Thiên Chúa bằng cách hành động thực thụ, ai từ chối hiệp thông lúc này
với Ngài, thì đã tự loại mình ra khỏi ơn cứu độ, khỏi sự hiệp thông vĩnh cửu
với Ngài, dù họ thuộc về cộng đồng tín hữu, đã nghe công bố Tin Mừng và chia sẻ
bí tích Thánh Thể. Họ quên mất một điều, là đã không làm cho mình nên nhỏ bé đủ
để đi qua cửa hẹp!
4. Trong Nước Thiên Chúa, trong sự hiệp thông
trọn vẹn với Thiên Chúa, sự hiệp thông trọn vẹn với loài người cũng được thể
hiện. Cuộc sống nhân loại viên mãn và phong phú của chúng ta hệ tại những tương
quan viên mãn và sâu sắc của chúng ta với anh chị em loài người. Niềm vinh phúc của cuộc sống trong Nước Thiên Chúa hệ tại cả ở sự
kiện các tương quan với loài người không bị cắt xén đi, nhưng lại được mở rộng
và đưa đến chỗ thành toàn. Muốn thế, đang khi còn sống
tại trần gian này, chúng ta cần nỗ lực. Buông trôi cuộc đời không chút
cố gắng là con đường đưa tới tuyệt vọng sau này.
Lm PX Vũ
Phan Long, ofm