ba
dỤ ngôn vỀ lòng thương xót cỦa Thiên Chúa
(Luca 15,1-32 – CN
XXIV - C)
1.- Ngữ cảnh
Đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay nằm trong phân đoạn độc đáo nhất của
TM Lc (9,51–19,27): cuộc hành trình lên Giêrusalem. Trong cuộc hành trình này, có đám đông
dân chúng đi theo Đức Giêsu.
Sau khi đã giáo huấn
đám đông về những điều kiện để làm môn đệ Ngươi (14,25-35), bây giờ
Đức Giêsu dùng một số dụ ngôn mà ngỏ lời với các người Pharisêu và các
kinh sư, vì họ đã lẩm bẩm trách móc Ngươi khi Ngươi
tiếp đón những người thu thuế và tội lỗi, và cùng ăn uống với những người ấy.
Ba dụ ngôn của chương 15 (con chiên bị lạc mất [cc. 4-7], đồng bạc bị
đánh mất [cc. 8-10], người con hư mất [cc. 11-32]) đã được gọi là “trái tim của
Tin Mừng III” (Romaroson), vì được kết cấu rất nghệ thuật để nêu bật được đề
tài duy nhất là tình yêu của Thiên Chúa và lòng thương xót đối với những kẻ tội
lỗi qua lời Đức Giêsu kêu gọi hoán cải.
Hai
dụ ngôn đầu nói về việc tìm được cái đã mất, dụ ngôn thứ ba cũng triển khai
cùng một đề tài, nhưng như một tổng hợp với những hình ảnh được
vận dụng rất tài tình. Trước đây dụ ngôn này vẫn được gọi là “Dụ ngôn đứa con
hoang đàng”, nhưng gọi là “Dụ ngôn người cha nhân hậu” thì hợp lý hơn, bởi vì
dung mạo trung tâm của truyện chính là người cha. Hoặc để tương ứng với hai đầu
đề của hai dụ ngôn trước, thì có thể gọi là “Dụ ngôn người con hư mất”, nhưng
nhớ rằng nhân vật chính là người cha, cũng như trong hai dụ ngôn trước, nhân
vật chính là người mục tử và người phụ nữ.
2.- Bố cục
Bản
văn có thể chia thành hai phần:
1)
Một dẫn nhập (15,1-3);
2) Ba
Dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa (15,4-32):
a)
Dụ ngôn Con chiên bị lạc mất và được tìm thấy (cc. 4-7);
b)
Dụ ngôn Đồng bạc bị đánh mất và được tìm thấy (cc. 8-10);
c) Dụ ngôn
Người con hư mất và được tìm thấy (cc. 11-32).
3.- Vài điểm chú giải
- Tất cả những người thu thuế và những
người tội lỗi (1): Đây là những
người ở bên lề xã hội Do Thái, những kẻ vô đạo, sống vô luân. Họ đến nghe Đức
Giêsu như đã từng đến nghe Gioan Tẩy Giả (3,12-13). Tác giả Luca đã nói quá khi dùng từ ngữ “tất cả”, nhưng mục đích là cho thấy chiều
hướng căn bản của sứ điệp và cách xử sự của Đức Giêsu: Người đến để tìm và cứu
những gì đã mất, nghĩa là tất cả.
- lẩm
bẩm (2): Cũng như ở 5,30 và sau này
ở 19,7, thì vị hồn (imperfect) cho hiểu đây là thái độ thường xuyên của
người Pharisêu và các kinh sư.
- ông này (2): Đại từ chỉ định
houtos có nghĩa xấu: “tên
này”.
- Người nào trong các
ông có một trăm con chiên (4): Đây là một mục tử vô danh, được dùng như biểu
tượng của Thiên Chúa giàu lòng từ bi thương xót (xem Cựu Ước: Tv 23,1-3; Ed 34,11-16).
- hơn là vì chín mươi
chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn (7): Nếu chín mươi chín
người này là các kinh sư và người Pharisêu, thì câu kết này có giọng mỉa mai.
Nhưng rất có thể đây chỉ là cách tác giả Lc
phóng đại niềm vui của Thiên Chúa khi có một người tội lỗi hối cải.
- mười đồng bạc (10): Đồng drachmê
là đồng bạc cổ. Chúng ta khó biết giá trị chính xác của đồng bạc này. Có một
thời người ta có thể dùng một đồng drachmê mà mua được một
con chiên, hoặc được nhận như lương làm việc một ngày. Vào thời
hoàng đế Nêrôn, đồng denarius được dùng đểthay thế đồng drachmê
và coi như tương đương.
- Một người kia có hai
con trai (11): Có thể giả thiết đây là một ông chủ trang trại giàu
có xứ Paléttina.
- phần tài sản con được
hưởng
(12): Theo tập tục xứ Paléttina, một người cha có thể định đoạt về của
cải của ông hoặc bằng một di chúc (HL. diathêkê) được thi hành
sau khi ông qua đời (Ds 36,7-9;
27,8-11) hoặc bằng một tặng-dữ ban cho các con trong khi ông còn sống (HL.
dôrêma; x. Hc 33,19-23).
Trưởng nam được hưởng “hai phần sản nghiệp”, nghĩa là gấp đôi phần được ban cho
mỗi người con khác (Đnl 21,17). Ở
đây, vì chỉ có hai đứa con, người con cả được nhận hai phần ba và người con thứ
nhận một phần ba. Khi đó, người con có quyền sở hữu, nhưng quyền thu hoa
lợi vẫn thuộc về người cha cho đến khi ông qua đời. Nếu người con bán phần gia
sản của mình, người mua chỉ được nhận lấy sau khi người cha chết. Khi làm như
thế, người con sẽ không còn có quyền đòi hỏi gì về của cải, cả về vốn lẫn lãi.
- sống phóng đãng (13): Trạng từ asôtôs
có nghĩa là “một cách không lành mạnh”. Chúng ta không biết là “không lành
mạnh” cụ thể là thế nào; ở c. 30, người anh cả mô tả là “nuốt hết của cải với bọn
điếm”, nhưng phải chăng anh đã phóng đại?
- chăn heo (15): Theo Lv 11,7 (x. Đnl 14,8), con heo, tuy có chân chẻ làm hai móng, nhưng không là
loài nhai lại, nên bị coi là “ô uế” đối với người Do Thái. Chi tiết này cho
thấy sự sa sút của chàng trai.
- nhưng chẳng ai cho (16): Thế thì anh ta
lấy thức ăn ở đâu, tác giả không nói, bởi vì điều này không quan trọng.
- chạy ra (20): Chi tiết này
diễn tả sáng kiến của người cha, tình yêu bền bỉ của ông đối với đứa con đã bỏ
đi.
- và hôn lấy hôn để (20): Không phải chỉ
là để chào đón, nhưng là bày tỏ sự tha thứ (x. 2 Sm 14,33).
- Thưa cha … con (21): Người con lặp
lại lời thú lỗi đã soạn trước (cc. 18-19), nhưng trước khi anh ta kịp nói ra
lời thỉnh cầu, người cha đã can thiệp rồi.
- áo đẹp nhất (22): dịch sát là
“chiếc áo thứ nhất”, tức là áo hạng nhất. Như thế, người cha không xử với người
con như anh ta yêu cầu (“như người làm công”), nhưng như một người khách
được tôn kính.
- xỏ nhẫn… xỏ dép
(22): Nhẫn là dấu chỉ quyền bính (St
41,42; Et 3,10; 8,2); dép là dấu chỉ
một con người tự do.
- đã mất mà nay lại tìm
thấy
(24): Đây là cụm từ móc nối liên kết dụ ngôn này với hai dụ ngôn trước.
- con hầu hạ cha (29): Người con cả
dùng động từ douleuein, “phục vụ”, “hầu hạ”, hàm ý là anh ta không chỉ
tự liệt mình vào hạng người làm công (misthios), nhưng là hạng nô lệ (doulos):
“hầu hạ cha trung thành như một tên nô lệ”.
- chẳng khi nào trái
lệnh
(29): Anh ta ý thức về sự trung thành của anh, anh nhấn mạnh đến lòng trung
thành này, tức nêu bật điều nghịch lý ở đây là nhân đức lại được ban thưởng tồi
tệ hơn là tât xấu!
- một con dê con (29): Chi tiết này cho
thấy người con cả không tin tưởng vào cha, anh tính toán, kể công.
- thằng con của cha đó (30): Người con cả diễn
tả mức khinh bỉ cao độ; anh ta không thể chấp nhận nói về người con thứ như là
“em con”. Ở đây thêm một lần nữa, tính từ houtos được dùng với
nghĩa xấu.
- lúc nào con cũng ở
với cha
(31): Người cha không trách móc, than thở, không nói rằng người con cả sai; ông
cũng chẳng phê phán thái độ cao ngạo hoặc bình phẩm gì cả. Ông coi mọi chuyện
đó là đúng như thế. Nhưng ông chỉ nhấn mạnh trên sự liên kết thâm sâu giữa cha
con: “Lúc nào con cũng ở với cha” (= con chưa bao giờ chết; con chưa bao giờ
mất).
- tất cả những gì của
cha đều là của con (31): nghĩa là tất cả của cải (x. c. 12), những gì còn lại sau khi
người con thứ đã lấy đi phần của anh ta; tất cả những thứ này sẽ thuộc về người
con cả, sau khi cha chết.
- em con (32): Câu trả lời của
người cha làm vọng lại công thức của người anh, và là một cách sửa chữa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Một dẫn nhập (1-3)
Đức Giêsu đã đến để cứu tất cả mọi người;
những người thu thuế và tội lỗi phải đến với Người bởi vì họ không gặp được ở
nơi nào khác lời đưa lại niềm hy vọng và sự tiếp đón ân cần nhưng-không. Cách
xử sự này khiến người Pharisêu và các kinh sư phải lẩm bẩm trách móc. Họ trách
Đức Giêsu hai điểm: đón tiếp người tội lỗi và ăn uống với họ. Các kinh sư
thường nói: “”Chớ có một ai đi giao du với những kẻ xấu xa, cho dù là thử
thuyết phục họ đi theo luật của Thiên Chúa”. Những người thu thuế và tội lỗi
không được thuộc về cộng đoàn, vì Thiên Chúa đã ngoảnh mặt đi tránh họ; do đó,
Dẫn nhập này đưa lại cho [các] dụ ngôn một
đặc tính là biện hộ, là bào chữa cho cách xử sự của Đức Giêsu đối với người
tội lỗi. Qua cách xử sự này, Đức Giêsu cho thấy là sự hoán cải không là điều
kiện tiên quyết người ta phải có để được Thiên Chúa đón tiếp; trái lại Thiên
Chúa đã thực hiện “sự hoán cải” trước, để người ta có thể lại đi vào quan hệ an
bình với Ngài.
* Ba
Dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa (4-32)
Từ dụ ngôn đầu đến dụ
ngôn thứ ba của chương 15, tác giả cho thấy có một sự tiệm tiến: một con
chiên trong số một trăm, một đồng bạc trong số mười đồng, rồi một
đứa con trong số hai người. Bản văn càng đi tới càng cho thấy rằng điều đã
mất nay lại tìm thấy càng lúc càng trở nên quí báu hơn.
Người mục tử, người phụ
nữ và người cha đều vô danh, bởi vì cả ba được đề ra như một biểu tượng
của Thiên Chúa yêu thương.
Một con chiên có giá
trị của nó. Không phải vì còn chín mươi chín con kia, mà con chiên bị lạc không
đáng kể. Người mục tử sẽ kiên nhẫn đi tìm con chiên lạc cho đến khi tìm thấy
nó. Chín đồng bạc còn lại vẫn không miễn cho người phụ nữ khỏi tha thiết đi tìm
đồng đã mất. Một người con thì còn đáng giá hơn muôn vàn con chiên hoặc đồng
bạc. Các kinh sư dạy rằng Thiên Chúa vui mừng khi người công chính sống lại, và
kẻ gian ác phải tiêu vong. Đứcd Giêsu lại nói rằng Thiên Chúa vui mừng khi kẻ
gian ác được sống lại, “trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội
lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải
sám hối ăn năn” (c. 7). Ở đây không phải là một lời kêu gọi hãy phạm tội, nhưng
là một lời mời gọi hãy nhìn nhận rằng tất cả chúng ta là những kẻ tội lỗi trước
mắt Thiên Chúa. Không có một ai là “công chính” cả. Vị thần linh ban thưởng tùy
theo các công trạng chỉ hiện hữu trong tâm trí người Pharisêu (xưa và nay). Vị
Thiên Chúa của Đức Giêsu là một vì Thiên Chúa ban tặng nhưng-không ơn cứu độ
cho tất cả chúng ta mặc dù chúng ta không đáng nhận.
Giờ đây chúng ta suy
niệm về truyện người con thứ và người con cả. Thật ra, cả hai người con được
nói tới chỉ là để cho người cha có cơ hội diễn tả các tâm tình của ông ra.
a) Người con thứ:
Sau khi đã nhận đủ phần
gia tài, người con thứ đi đến một xứ xa xôi, hẳn là một miền đất
dân ngoại. Tại đó, anh đã xài hết tiền của. Rơi vào tình trạng khốn đốn, anh
phải chăn heo: đây là sự sa cơ thất thế cùng cực! Anh ta suy nghĩ. Nhưng không
phải là hối hận về lối sống, không phải là tiếc nuối vì đã làm cho cha đau
buồn. Anh ta chỉ tự trách là ngu ngốc chịu đói chịu khát ở đây trong khi các
tôi tớ ở nhà có ăn dư thừa. Thế là để có thể trở về và được nhạn vào nhà như
người làm công, anh chuẩn bị một bài “diễn từ cảm đông” để mong cha
nguôi giạn: các lời lẽ hối tiếc không đi đôi với các tâm tình của anh.
Quả thật hình ảnh này
không tôn vinh kẻ tội lỗi chút nào. Đây đúng là chân dung mà người Pharisêu chờ
đợi.
b) Người con cả:
Lúc người con thứ trở
về, người con cả đang làm việc ngoài đồng. Khi trở về, anh nhận ra trong nhà có
chuyện lạ. Sau khi hỏi một người đầy tớ, anh ta hiểu chuyện; anh không thể chấp
nhận được, anh nổi giận. Ta thông cảm với anh. Vì anh không chịu vào nhà, người
cha đã ra gặp. Thế là anh cho tuôn ra hết những gì vẫn chất chứa tận đáy lòng:
anh nói với giọng chua cay, nhưng kể ra đúng các sự việc. Theo anh, đúng là
người cha đã xử sự bất công! Những người Pharisêu và các kinh sư cũng nghĩ rằng
họ có lý khi tỏ ra khó chịu với Đức Giêsu.
Trước tiên người con cả
nói về chính mình: “Bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái
lệnh”. Chắc chắn đấy cũng là lý tưởng của người Pharisêu và các kinh sư: “phục
vụ” Thiên Chúa bền bỉ, và rất chú ý để không bao giờ vi phạm một điều
răn nào.
Sau đó, người con cả
nói về em với giọng hết sức khinh bỉ. Anh không gọi là “em con”, nhưng nói là
“thằng con của cha đó”. Điều này cũng giống như người Pharisêu trong dụ ngôn Lc 18,10-14 nói đến “tên thu thuế kia”
với giọng miệt thị.
Như thế, Đức Giêsu đã
ngỏ lời với những người vẫn nghĩ rằng mình là những tôi tớ tốt lành, luôn quan
tâm để không bao giờ thiếu sót một điều răn nhỏ. Khi đó, họ nghĩ họ có
nhiều quyền; họ tỏ ra khó chịu, không phải đối với người tội lỗi, nhưng đối với
chính Thiên Chúa vì Ngài đã đối xử với kẻ tội lỗi như vậy: Nếu như thế, sống
đạo đức còn ích lợi gì? Nếu như thế, sống
trung thành và vâng phục Thiên Chúa còn có ý nghĩa gì nữa?
c) Người cha:
Người cha trông mong
người con thứ từng ngày, nên ngay khi anh còn ở đàng xa, ông đã trông thấy. Ông
vội vã chạy ra đón con, ông cuống quýt thúc đầy tớ chuẩn bị lễ mừng. Ông chẳng
màng đến bài diễn từ bần tiện của anh ta. Ở nhà có con bê béo, ông quyết định
cho giết ngay để ăn mừng. Rõ ràng trong lòng ông, niềm vui đang bùng nổ. Ông
chưa bao giờ thôi thương yêu con. Nó đi xa, nó đã mất; nay nó lại được tìm
thấy. Quá khứ không còn gì đáng kể, Điều quan trọng là nó đã trở về!
Đã không muốn nghe lời
hối lỗi của con thứ, nay người cha lại để cho người con cả tha hồ nói lên những
tâm tình chua chát. Sau đó, ông đã trả lời với giọng dịu dàng âu yếm. Qua lời
ông nói, người con cả chẳng còn lý do gì mà nói rằng cha xử bất công với mình
nữa. Nhưng ông tế nhị điều chỉnh: “vì em con đây…”. Nếu cha đã sung sướng đến
thế khi gặp lại con, lẽ nào người anh lại không
vui sướng khi gặp lại em?
Chúng ta không bao giờ
biết được phản ứng sau đó của người con cả (nghe theo đề nghị của cha? Đi vào
nhà và chào em? Đi vào ăn tiệc chung vui?). Chúng ta cũng không biết người con
thứ được sống theo chế độ nào, anh ta sẽ đáp lại thế nào. Dù sao, toàn chương
15 giống như một bài ca chan hòa niềm vui được tấu lên để mừng niềm hạnh
phúc của người đã tìm lại được điều mà họ đã mất.
+ Kết luận
Nếu đọc cả ba dụ ngôn,
chúng ta sẽ thấy hai dụ ngôn đầu kết “có hậu”, còn dụ ngôn thứ ba có kết mở:
Người con cả có vào nhà theo lời cha mời chăng? Như thế, hai kết luận tốt đẹp
đầu nhằm đưa tới chúng ta một câu hỏi: Chúng ta có hết lòng chia sẻ niềm vui
của Thiên Chúa mà đón người tội lỗi hối cải vào Nước Thiên Chúa không? Trong
thực tế, chúng ta vẫn được Thiên Chúa vui lòng đón tiếp, chúng ta cũng hãy sẵn
lòng đón lấy người anh em trở về.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Mỗi con người đều có
giá trị vô song trước mặt Thiên Chúa. Ngài đã tạo nên từng con người với tất cả
những phong phú làm nên nhân vị con người ấy. Ngài hỗ trợ cho con người ấy phát
triển đến mức tối đa, để cuộc đời người ấy thành một tuyệt tác cho Ngài
và cho loài người. Khi chúng ta phục vụ anh chị em, chúng ta phục vụ từng con
người có giá trị độc đáo duy nhất, hay là chúng ta chỉ coi như là những con số,
những “con chiên” không tên tuổi, theo nhau lầm lũi trước mặt chúng ta?
2. Thiên Chúa thương
tất cả mọi người và muốn cho mọi người đều được cứu độ. Nhưng “tất cả” không có
nghĩa là một khối người tương đối đông, mà là “từng người”. “Tất cả” là
“từng người” trong thế giới, không bỏ sót một ai. Thiên Chúa chiếu cố
đến từng con người y như chỉ có một mình người ấy trên đời.
3. Chúng ta có thể thấy
mình như người con thứ: không phải là tên ăn cắp, chỉ lấy đúng phần mình; chúng
ta cũng còn biết nói “thưa cha!”, nhưng không hề vui thích được ở với cha, mà
chỉ muốn ra đi “ăn chơi” cho thỏa thích. Và mỗi khi gặp khó khăn, thì chỉ dâng
lên Thiên Chúa một lời cầu nguyện đầy vụ lợi, tính toán. Người con thứ không
biết nghĩ rằng xin làm một “người làm công”, thì sỉ nhục cha quá nặng nề, bởi vì cha vẫn chỉ mong đón mình về để làm “con”. Nay được
cha đón vào nhà rồi, anh có biết đáp lại tình cha không? Phần này, chính chúng
ta sẽ phải viết tiếp bằng đời sống thực tế của mình.
4. Chúng ta cũng có thể
thấy mình như người con cả, không bao giờ trái lệnh cha, nhưng cũng chẳng thích
ở với cha; trái lại chỉ tính toán, mong có ngay “thoát ly” để đi vui chơi với
bạn bè. Đã thế, chúng ta lại tỏ ra khinh bỉ, miệt thị những kẻ bị coi là “tội
lỗi”. Nay đã được cha ra gặp để tâm sự rồi, anh có vào nhà để chung vui không?
Phần này, chính chúng ta cũng sẽ phải viết tiếp bằng đời sống thực tế của mình.
5. Vì không hiểu tình
yêu của cha, cả hai người con, đặc biệt anh cả, không hiểu tiếng gọi kèm theo
sự hiểu biết đó: anh chỉ thực sự là con của cha, khi yêu thương anh em mình. Ta
không thể phục vụ Thiên Chúa như Ngài muốn nếu không yêu mến Ngài và thông chia
tình yêu của Ngài cho anh chị em mình, cho dù họ thế nào. Làm sao có thể tự
nhận là môn đệ của Đức Giêsu, khi khinh bỉ quay mặt tránh người anh em đang ở
trong tình trạng bần khốn nhất, do tội lỗi gây nên?
Lm FX Vũ Phan Long, ofm