YÊU THƯƠNG, THA THỨ
LÀ BẢN CHẤT CỦA THIÊN CHÚA
(Chúa Nhật 24 Thường Niên, C)
Jos.Vinc.
Ngọc Biển
Trong cuộc sống,
chúng ta vẫn thường nghe đâu đó những lời bàn tán: “tại sao Thiên Chúa không phạt nhãn tiền những kẻ tội lỗi, kiêu căng, tự phụ và làm
những chuyện gian ác! Thiên Chúa phải chăng dung túng cho những kẻ bất lương, để họ tha hồ lộng hành và ‘tác oai
tác quái …?’” Khi có những suy
nghĩ như vậy, chúng ta quên mất một điều căn bản về Thiên
Chúa. Nếu Thiên Chúa làm những chuyện ngược lại với bản chất của Ngài, thì Ngài
không còn là mình nữa, bởi vì “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay
trình bày cách tiệm tiến cho chúng ta thấy rất rõ về lòng thương xót vô
bờ của
Thiên Chúa qua các bài đọc.
1. Ý Nghĩa Lời Chúa
Sang bài đọc II: thánh Phaolô nhắc lại
cho ông Timôthê về lòng thương xót mà Thiên Chúa đã ban cho ông. Nếu Chúa không
tha thứ, thì ông không thể được phần phúc biết và rao giảng về Đức Kitô Giêsu,
bởi chưng trước kia ông là một người phỉ báng danh Chúa như chính ông đã bộc lộ:
“Người đã kể cha là người trung tín, khi đặt cha thi hành chức vụ: dù trước kia
cha là kẻ nói phạm thượng, bắt đạo và kiêu căng, nhưng cha đã được Thiên Chúa
thương xót, vì cha vô tình làm những sự ấy trong lúc cha chưa tin”.
Đỉnh cao là bài Tin Mừng: bài Tin Mừng
thuật lại việc Đức Giêsu thường xuyên tiếp xúc với những người thu thuế và những
người tội lỗi, vì họ rất thích nghe Ngài giảng. Thấy được điều đó, những người
Pharisiêu và những người Biệt Phái liền xầm xì với nhau, đồng thời bàn tán về
hành động của Đức Giêsu đang làm. Thấy vậy, Ngài mới kể cho họ nghe một loạt dụ
ngôn, nhằm giúp cho họ nhận ra bản chất của Thiên Chúa.
Bắt đầu từ dụ ngôn “chiên lạc”: qua dụ ngôn
này, Thiên Chúa được ví như người mục tử, sẵn sàng bỏ 99 con còn lại để đi tìm
1 con thất lạc. Con chiên lạc này mất vì lý do nào ta không biết, chỉ biết là
nó đã tách ra khỏi đàn và biến mất khi chiều về. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể
hiểu được rằng: nó đang trong hoàn cảnh cùng cực, lấm lem và đối diện với sự
nguy hiểm vì không nhận được sự chăm sóc của chủ nó cũng như không có sự bảo vệ
tập thể. Thấy được nỗi sợ hãi, bơ vơ… của chiên bị lạc và với bản chất của người
chủ chiên tốt lành, ông đã lên đường đi tìm. Nếu xét về góc độ toán học thì ông
chủ này quả là vô lý khi chấp nhận bỏ lại 99 con để chỉ đi tìm 1 con bị lạc. Vô
lý vì 1 so với 99 thì 1 không có ảnh hưởng đến kinh tế là mấy. Mất 1 ông cũng
không nghèo đi chút nào cả. Tuy nhiên, với ông thì sự giàu nghèo thua thiệt về
số lượng không quan trọng, điều quan trọng chính là mỗi một con chiên đều có
giá trị trước mặt ông, vì thế ông không thể để mất nó được. Một hành động hết sức
gợi cảm, đó là ông chủ tìm được rồi thì vác nó lên vai. Hành động vác trên vai
thể hiện sự trân trọng, yêu mến và nâng niu. Chấp nhận tha thứ tất cả và thể hiện
tình thương trọn vẹn cho nó. Thiên Chúa
là thế đó.
Tiếp theo là dụ
ngôn “đồng bạc bị mất”: 1 đồng bạc ở đây chỉ có giá trị bằng một ngày
công thời bấy giờ. Mất một đồng tức là bị mất một phần rất nhỏ về giá trị vật
chất. Nhưng lạ kỳ thay, khi mất một đồng như vậy, người đàn bà đã làm mọi cách
để tìm cho bằng được đồng bạc đã mất. Nào là thắp đèn, quét nhà, moi móc, và
khi tìm được rồi thì vui mừng mời hàng xóm láng giềng đến chung vui. Hành vi
này của người đàn bà trong dụ ngôn lại trở nên khó khăn hơn rất nhiều, bởi vì nhà
của người Do Thái thời đó rất thiếu ánh sáng, trật trội. Còn nền nhà thì làm bằng
đất và được phủ lên bằng những tấm liếp được đan bằng sậy và cành cây đã khô.
Tìm một đồng bạc như vậy chẳng khác gì “mò
kim đáy biển…”. Tuy nhiên, bà vẫn cố tìm, khi tìm được, bà sẵn sàng mời mọi
người đến chung vui. Tìm được một đồng, mà lại mời hàng xóm đến chung vui thì
quả là một người không biết tính toán. Nhưng không, bà nghĩ đồng bạc tìm thấy
là cái gì đó gắn liền với bà, nên tìm được rồi thì niềm vui nhân lên gấp nhiều
lần chi phí phải trả để mời bạn bè. Thiên
Chúa là thế đó.
Cuối cùng là dụ
ngôn “người con hoang đàng”: với người Do Thái thì việc xin cha mẹ chia gia
tài cho mình lúc còn sống chính là một điều bất kính, chẳng khác gì mong cho
cha mẹ chết sớm. Dụ ngôn cho thấy, ông chủ có hai người con, và lẽ dĩ nhiên hai
người con của ông chính là điểm tựa lúc về già. Ấy vậy mà người con thứ đã ngạo
ngược xin cha chia gia tài cho mình. Vì tình thương, và tôn trọng sự tự do, người
cha không nghĩ gì cho mình, nên đã sẵn sàng chia gia tài theo ý con của mình
xin. Có được tiền bạc trong tay, người con thứ ra đi, ăn chơi, đàn điếm và
phung phí hết tiền bạc, kết cục bằng việc phải đi làm mướn bằng nghề chăn nuôi
heo. Đây là công việc mà người Do Thái cho là ghê tởm và đáng bị nguyền rủa, bởi
vì loài heo là loài ô uế và hình ảnh của Ma Quỷ. Sống trong tình trạng cơ cực
như vậy, nó mới hồi tâm và quyết định trở về với cha mình. Khi nó trở về, người
cha không hề oán trách tại sao mày ra nông nỗi này, hay tiền có còn hay hết, hoặc
mày muốn đi thì cho đi luôn, đừng quay trở lại nữa. Không! Người cha đã trông
mong nó trở về từ lâu, ngày nó ra đi cũng là ngày người cha sống trong hy vọng được
gặp lại nó. Quả thật, khi nó quay về, ông vui mừng khôn siết, không cần suy
nghĩ gì cả, và việc đầu tiên ông làm là ôm hôn nó. Sau đó là phục hồi nhân phẩm
cho đứa con tội nghiệp của mình. Nào là: xỏ giầy vào chân cậu, đây là dấu chỉ của
người được tự do, không còn là nô lệ cho ông chủ nào đó mà con ông đã từng bị bắt
phải chăn heo. Trao nhẫn vào tay cho cậu, hành vi này thể hiện sự phục hồi hoàn
toàn nhân phẩm cho đứa con một thời dại dột. Và, cuối cùng, ông đã mở tiệc ăn mừng
vì việc con ông trở về. Sự trở về của người con thứ được ví như “đã mất mà nay tìm thấy, đã chết mà nay sống
lại”. Thiên Chúa là thế đó.
2. Sứ Điệp Lời Chúa
Như vậy, qua
các bài đọc hôm nay, phụng vụ Lời Chúa làm toát lên bản chất của Thiên Chúa, một
vị Thiên Chúa luôn yêu thương con người; Ngài là Đấng luôn luôn tha thứ, cảm
thông và sẵn sàng chết cho người mình yêu. Thật vậy, bình thường, không một ai
lại bất thường đến độ bỏ 99 con chiên để đánh đổi 1 con; mất một đồng bạc lại tốn
công hại sức để đi tìm và tìm được rồi lại mở tiệc khao xóm
giềng chỉ vì tìm được một đồng. Nhưng những điều xem
ra
nghịch lý đó được trở nên hợp lý khi chúng ta bước sang dụ
ngôn thứ ba nói về người cha nhân hậu. Thật vậy, Thiên Chúa
luôn luôn tha thứ và sẵn sàng chấp nhận tất cả, miễn là con người có sự trở về
và tỏ lòng sám hối. Với Chúa, hình ảnh 1 con chiên và đồng bạc là một cái gì đó
quý giá trước mặt Ngài, bởi vì mỗi người đều là một hữu thể duy nhất trước mặt
Chúa, nên cần được Chúa yêu thương. Tấm lòng của Thiên Chúa là tấm lòng của một
người cha nhân từ, tha thứ. Người Cha này không thể ngủ yên khi con của mình
đang thiếu thốn tình thương, đang sống trong tình trạng nguy hiểm. Một người chủ
chiên không thể nào “bình chân như vại”
khi biết trước được vận mệnh của con chiên đi lạc. Một người phụ nữ không thể
nào chấp nhận mất đi cái mà mình luôn coi trọng vì nó gắn liền với cuộc sống của
bà. Thiên Chúa là như thế đó. Ngài đã yêu
là yêu đến cùng. Thật vậy, tận cùng của tình yêu là yêu không giới hạn.
3. Sống Lời Chúa Trong Cuộc
Sống Hôm Nay
Chúng ta thật hạnh
phúc vì có một vị Thiên Chúa giàu lòng xót thương, một
vị Thiên Chúa luôn đồng hành, tha thứ và xóa bỏ hết
những tội lỗi cho chúng ta cho dù tội của chúng ta có nặng tới đâu: “dù tội con có đỏ như son, Ta
cũng làm cho trở nên trắng như tuyết. Có thẫm tựa vải điều, Ta cũng làm nên trắng như bông”. Vì thế, noi gương Chúa,
chúng ta cần phải có thái độ tha thứ và nhận định đúng về người anh chị em của
chúng ta. Không ai là xấu hết, cũng như không ai là tốt hết. Đã là con người,
ai cũng có những sự bất toàn của mình. Thái độ của chúng ta đôi khi cũng giống
như những người Biệt Phái và Kinh Sư khi xưa là tìm cách bắt bẻ anh chị em mình
để “bới lông tìm vết” và vạch trần những
tội lỗi của anh chị em. Đôi khi lại còn thích thú khi thấy người khác sa ngã,
vì đây là cơ hội để mình lên mặt dạy đời, hay có những khi tỏ vẻ nhân từ để sửa
lỗi cho anh chị em mà lại vô tình đẩy anh chị em chúng ta vào chỗ chết.
Thật vậy, Lời
Chúa ngày hôm nay dạy cho chúng ta phải có lòng nhân từ đích thực như Thiên
Chúa, phải vui mừng vì thấy người anh chị em chúng ta sám hối trở về, đừng bao
giờ vội kết luận người khác là “đồ bỏ”.
Muốn làm được điều đó, thiết nghĩ mỗi chúng ta cũng cần nhận ra mình là kẻ tội
lỗi và đã được Chúa yêu thương. Biết bao lần nếu Chúa không cho chúng ta có cơ
hội để làm lại thì ta đã mất ơn nghĩa với Chúa từ lâu rồi. Trong kinh Vực Sâu
có viết: “Nếu Chúa chấp tội thì nào ai rỗi
được”.
Thật vậy, trước
mặt Chúa, chúng ta phải thành thật mà thú nhận rằng: đôi khi chúng ta không phải
là đứa con đi hoang, ra khỏi nhà để sống một cuộc sống trụy lạc như người con
thứ, song nhiều lúc, chúng ta lại đi hoang trong cõi lòng. Môi miệng thì đọc
kinh, hằng ngày vẫn đi lễ, nhưng hành động và thái độ yêu thương lại quá xa vời
hay hời hợt với tinh thần của Chúa. Có những người nói là con chiên ngoan đạo,
nhưng không thể hướng một ánh mắt thân thiện, một nụ cười cởi mở, một cái bắt
tay chân tình với những người mà ta không ưa. Như vậy, chúng ta chính là những
người đang đi hoang, lạc đàn về tâm linh như người con cả. Ở trong nhà cha mà bấy
lâu anh ta cứ tưởng mình như người làm công cho cha mà thôi, và tệ hơn nữa là
có những hành xử thiếu tình gia đình với em của mình.
Như vậy, nếu
Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu với chúng ta, mặc dù chúng ta đáng tội chết, thì
đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương và sẵn lòng tha thứ cho những
người xúc phạm đến ta. Kinh nghiệm cho thấy, chúng ta không thể tha thứ được
cho người khác là vì chúng ta luôn nghĩ mình tốt lành hơn họ. Nhưng trong thực
tế, đôi khi tội của ta còn nặng hơn gấp bội lỗi của anh chị ta, chỉ có điều tội
của ta thì không ai biết nên ta dễ dàng vênh vang và tự phụ, nhưng Chúa biết cả.
Bao lâu chúng ta nghĩ mình cũng là người yếu đuối và đã được Thiên Chúa yêu thương
thì chúng ta cũng cần tha thứ cho nhau như Chúa đã tha thứ cho chúng ta.
Lạy Chúa là Cha
giàu lòng thương xót. Xin tha thứ cho những thiếu xót của chúng con; đồng thời
xin ban cho mỗi chúng con cũng có một trái tim, ánh mắt nhân từ như Chúa, để
chúng con sẵn sàng tha thứ cho người khác khi họ xúc phạm và có lỗi với chúng
con. Amen.