cuỘc
sỐng
trẦn
thẾ
không phẢI là tẤt
cẢ
(Luca 16,19-31 – CN XXVI TN - C)
1.- Ngữ cảnh
Tại đoạn Lc 16,14-18, tác giả đã mô tả người Pharisêu là “vốn ham hố
tiền bạc”. Lời mô tả này chủ ý được ghi vào cho khó nghe, bởi vì là một nhận
xét bất thường, không có chỗ nào trong TM III hay Cv sử dụng. Đức
Giêsu than trách rằng điều răn quan trọng nhất, yêu thương người thân cận như
chính mình, đã phải hy sinh cho việc giữ lấy của cải riêng, và lòng yêu thương
đối với chính mình, cho dù phải hy sinh người thân cận, đã được ưa chuộng hơn –
và điều này lại rõ ràng nơi những người Pharisêu đạo đức! Những câu nói về sự
ham hố tiền bạc dễ dàng tuôn ra từ dụ ngôn trước đó nói về việc sử dụng của cải
cách bất chính (16,1-8) và từ những bài học về việc lạm dụng của cải (16,9-13).
Vậy bài dụ ngôn 16,19-31 là phần nối tiếp những nhận định lâu dài của tác giả Lc
về việc sử dụng không đúng đắn các của cải (kể từ bài Người con hoang đàng).
Bài dụ ngôn hôm nay giúp làm sáng tỏ hoàn cảnh này. Người Pharisêu chế nhạo Đức
Giêsu khi nghe dụ ngôn của Người đề cập đến tiền bạc; bây giờ, bằng ngôn ngữ rõ
ràng và mạnh mẽ, Đức Giêsu biện luận về cách sử dụng đúng đắn các của cải.
Những lời Đức Giêsu (16,15-18) tiếp theo lời tác giả giới thiệu người
Pharisêu ở c. 14 tập trung vào những gì Đức Giêsu cùng chia sẻ với cử tọa: hết
sức tôn trọng các giáo huấn của Cựu Ước; chỉ có một con đường duy nhất đưa vào
Nước Trời (16,16), đó là tuân giữ các giáo
huấn của Thiên Chúa, và ở đây là giáo huấn liên hệ đến việc sử dụng đúng
đắn các của cải. Lề Luật nói về điểm này, sẽ không bao giờ qua đi, nhưng luôn
hướng dẫn các chọn lựa của con người (16,17). Điều duy nhất Đức Giêsu thêm vào
các giáo huấn đáng kính của Thiên Chúa là làm sáng tỏ cách người Do Thái hiểu
Luật Môsê (x. c. 18 như một ví dụ về cách Đức Giêsu làm sáng tỏ Lề Luật). Người
Kitô hữu, trong khi vẫn nhìn nhận giá trị của Luật Cựu Ước, lại sống ý muốn của
Thiên Chúa theo cách hiểu của Đức Giêsu, là Đấng Cứu thế, là vị Hướng đạo và
Đấng soi sáng mình.
Vì không có một từ hay một câu nào để
nối dụ ngôn với các câu trước, ta có thể hiểu rằng dụ ngôn thuộc về những câu
đi trước nó.
2.- Bố cục
Bản
văn có thể chia thành hai phần:
1) Hoàn cảnh của ông nhà giàu và Ladarô (16,19-22);
2) Cuộc đối thoại (16,23-31):
a)
Phần một: Cuộc sống dưới ánh sáng của cái chết (cc. 23-26);
b) Phần hai: Sứ điệp cho “năm người anh em” và cho các môn đệ Đức Giêsu:
lắng nghe Lời Chúa (cc. 27-31).
3.- Vài điểm chú
giải
- mặc toàn … (19): enedidysketo, thì vị
hoàn của động từ endidyskô, “mặc”, cho hiểu là đây là một hành động xảy
ra thường xuyên.
- lụa là gấm vóc (19): dịch sát là “gấm tía
và vải lanh mịn”. Theo ngôn ngữ của Cựu Ước (Cn 31,22; 1 Mcb
8,14), ta hiểu ông nhà giàu sống như một ông vua.
- Ladaro (20): Do từ Híp-ri ’El‘âzâr, có nghĩa
là “Thiên Chúa giúp đỡ”.
- được thiên thần đem (22): Do vế sau nói về ông
nhà giàu “cũng chết, và người ta đem chôn”, tức là linh đình và long trọng, ta
hiểu anh Ladarô không được loài người an táng, nên đã được các nhân vật thiên
quốc đem đi.
- anh Ladarô trong lòng tổ phụ (23): Đây là vị
trí danh dự khi người ta được dự tiệc đồng bàn với Abraham tại bữa tiệc thiên
sai (Lc 13,28-29; x. Ga 13,22).
- âm phủ (23): Từ ngữ (h)adês lấy từ thế giới Hy
Lạp, để mô tả cuộc sống của người ta sau cái chết. “Hadês” là tên của vị thần
Hy Lạp cai trị âm phủ, và được dùng để chỉ nơi người ta không thể nhìn thấy, do
con chữ alpha có nghĩa là thiếu mất đứng trước ngữ căn của động từ “nhìn
thấy”. Đối với người Hy Lạp không tin có sự sống lại từ cõi chết, dù chấp nhận
có sự bất tử, linh hồn của người chết được mô tả là đi lang thang trong một xứ
sở không có mặt trời, trong một hình dạng bất toàn, như một cái bóng.
- ông ta ngước mắt nhìn lên (23): Ông đang “ở dưới”,
tượng trưng cho tình trạng đau khổ, nhục nhã và thiếu thốn mà ông không tự giải
quyết được.
- lòng tổ phụ (23): biểu tượng người Do Thái dùng để
nói về tình trạng sống rất thân tình và rất được ao ước, khi đó hai con người
kết hợp với nhau. Công thức này tương tự với công thức “lòng kề lòng”.
- Ladarô được an ủi (25): Thái bị động thay
tên Thiên Chúa: “Thiên Chúa an ủi” Ladarô.
- đã có một vực thẳm lớn (26): Dịch sát là “đã cắt
ngang định sẵn một vực thẳm” (NTT). Đây là thái bị động thay tên Thiên
Chúa: “Thiên Chúa đã định sẵn một vực thẳm”.
- Chúng đã có Môsê và các Ngôn sứ (29):
“Môsê và các ngôn sứ” là tên gọi bộ Kinh Thánh Do Thái (tức Cựu Ước). Tổ phụ
Abraham khẳng định rằng sứ điệp nòng cốt của Kinh Thánh Do Thái vẫn còn là một
cẩm nang có giá trị để hướng dẫn anh em ông nhà giàu.
4.- Ý nghĩa của bản
văn
* Hoàn cảnh của ông nhà giàu và Ladarô (19-22)
Ông nhà giàu không có tên, nhưng lại rất giàu; còn Ladarô chỉ có một sự
giàu có, đó là cái tên. Hai người không có tương quan gì với nhau cả.
Ông nhà giàu không làm điều gì xấu về luân lý cả; ông chưa hề từ chối
Ladarô một điều gì, vì Ladarô cũng chưa xin gì cả. Bản văn chỉ nói rằng
ông có một chương trình sống như chương trình một ông nhà giàu
khác đã phác ra, nhưng đã không thể thực hiện trọn vẹn vì cái chết đến sớm: “Cứ
nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã” (Lc 12,19). Y phục thường xuyên
của ông là lụa là gấm vóc: mỗi ngày ông đều mặc “gấm tía và vải lanh mịn”, chứ
không chỉ vào một số ngày đặc biệt. “Gấm tía” rất đắt, nên chỉ giới thượng lưu
vương giả mới dám dùng. “Vải lanh mịn” cũng là thứ hàng hiếm, ngay tại Rôma.
Thế mà ông nhà giàu mặc mỗi ngày! Thường mỗi gia đình có một bữa ăn chính mỗi
ngày; còn trong nhà của ông nhà giàu, bữa ăn chính này, mỗi ngày, lại là một
yến tiệc. Chắc chắn ông nhà giàu không ăn mặc và ăn uống sang trọng hào nhoáng
như thế cho riêng ông, ông phải có các khách mời. Ông đã sống như một ông vua.
Các thính giả có thể khó chịu vì bức tranh này, vì dường như “bôi bác”
người nghèo. Nhưng Đức Giêsu sắp chuyển sang vấn đề cách thức sử dụng của cải
và lý do vì sao của cải không cứu được mà lại tiêu diệt người chủ của. Chính
bài học hệ trọng này cho hiểu vì sao Đức Giêsu giới thiệu quá chi tiết hình ảnh
ông nhà giàu, một hình ảnh ở mức độ nào đó đang có trong mỗi một người, ở dạng
hiện thực hay ở dạng nguyện ước.
Thế rồi Đức Giêsu đưa ra một hình ảnh đối ngược tối đa với ông nhà giàu:
một người nghèo mạt. Bản văn không nói là anh này sống đúng đắn về luân lý. Anh
có một tên, “Ladarô” có nghĩa là “Thiên Chúa giúp đỡ”, một cái tên có ý nghĩa
đối với “những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù” (x. Lc
14,13.21). Ladarô nghèo khó lại mụn nhọt đầy mình. Phải chăng Thiên Chúa sẽ giúp đỡ Ladarô qua
trung gian ông nhà giàu? Anh không thể đi lang thang đây đó mà xin ăn. Ladarô
cần có bạn bè để giúp anh tìm được thức ăn. Họ đã bỏ anh nằm trước cổng nhà ông
nhà giàu, một vị trí mà một người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù,
người không được mời, có thể ở gần chủ nhà nhất. Ông chủ và các khách mời không
thể nào không biết có anh này ở ngoài cổng, và quả thật, ông nhà giàu đã gọi
tên anh khi anh đang ở trong lòng tổ phụ Abraham.
Ladarô đói, anh thèm được ăn những thứ thừa thãi trên bàn người giàu và các
thực khách rơi xuống. Rất có thể mấy con chó dưới gầm bàn được hưởng những thứ
này. Mà nếu vậy, hẳn là Ladarô mong được không phải ở giữa những thực khách, mà
là ở giữa những con chó. Chỉ có mấy con
chó hoang đến liếm ghẻ chốc của anh. Phải chăng chúng săn sóc anh? Nếu thế, ông
nhà giàu không giúp đỡ anh bằng mấy con chó. Nhưng cũng có thể hiểu việc mấy
con chó đến liếm mụn nhọt cho anh như là một tình trạng bị bỏ rơi, không được
ai giúp đỡ, mà còn bị đàn vật tấn công nữa.
Bức tranh Đức Giêsu phác ra kết thúc tại điểm này: đây là một “kết thúc
mở”. Tình trạng mâu thuẫn đã rõ. Đức Giêsu không mô tả thêm gì; điều này có
nghĩa là bao lâu hai nhân vật trên còn sống, không có gì thay đổi cả: mỗi người
cứ tiếp tục như thế cho đến chết. Dù sao, tác giả Lc không hề xác định
rằng ông nhà giàu xấu xa, hay là Ladarô là điển hình của người tốt. Đấy là
những vấn đề nằm ngoài bản văn. Tác giả chỉ mô tả cuộc sống của hai bên: một
bên thì ăn tiệc, còn bên kia thì ăn xin; một bên thì ăn mặc sang trọng, còn bên
kia thì gần như trần truồng.đây là hai kiểu mẫu song đối đang đứng trước mặt
nhau, nhưng không có đối thoại. Mặc dù có sự gần kề thể lý hằng ngày, dụ ngôn
lại cho thấy sự xa cách là có thật. Đàng khác, sự kiện họ không nói với nhau là
một yếu tố không phài không đáng kể, nhất là trong một dụ ngôn kết thúc bằng
việc kêu gọi lắng nghe (16,29.31).
* Phần
một của đối thoại: Cuộc sống dưới ánh sáng của cái chết (23-26)
Nhưng cái tên “Ladarô”, có nghĩa là “Thiên Chúa giúp đỡ”, Đức Giêsu cố tình
gán cho anh, là để ta hiểu rằng cái tên của anh phù hợp với hoàn cảnh của anh:
Khi còn sống, anh đã không được người nào giúp đỡ; sau khi chết, anh đã được
Thiên Chúa an ủi.
Đứng trước cái chết, ông nhà giàu và anh nhà nghèo bình đẳng. Cái chết
chiếu cố đến cả hai người. Nhưng tại điểm này, số phận của họ đảo ngược. Bản
văn không nói gì về phán xét, nhưng chỉ ghi nhận sự đảo lộn các số phận, đồng
thời nói đến một tình trạng bất khả truyền thông giữa hai bên. Những gì được
nói ở đây về cuộc sống sau cái chết không phải là một mô tả chính xác về
cuộc sống ấy và không hề có ý phác ra một địa lý của thế giới bên kia
gồm những vùng hoặc những tầng. Nếu Đức Giêsu chọn nói về đau khổ dành cho
những kẻ tội lỗi trong cuộc sống sau cái chết, Người thường vận dụng kinh
nghiệm của các cư dân của một thành phố qua hình ảnh một ngọn lửa cháy mãi trên
một đống rác, liên tục cháy ngày đêm để thiêu đốt rác rưởi của thành ấy (Mc
9,48; x. Is 66,24).
Các hình ảnh này chỉ muốn diễn tả sự khác biệt tận căn trong thế giới bên
kia của đời sống một người đã rất giàu có và đời sống của một người
đã hết sức nghèo túng. Ladarô được đưa vào lòng tổ phụ Abraham. Abraham, bạn
của Thiên Chúa và tổ phụ của dân Israel, được coi như người chủ tọa bữa tiệc
mừng trong thế giới ấy (x. Mt 8,11). Ladarô, đã từng nằm vạ vật bẩn thỉu
trước cổng và chỉ có bầy chó làm bạn, nay nhận được một chỗ danh dự bên
cạnh tổ phụ Abraham, trong sự hiệp thông thân tình và tin tưởng với ngài (x. Ga
13,23). Còn ông nhà giàu, trước đây, ông ăn mặc tinh tế và xa hoa, nay chỉ có
lửa bao quanh ông, khiến ông rất đau đớn. Trước kia, ông luôn có sẵn những thức
ăn thơm ngon và thức uống ê hề, bây giờ ông phải xin một giọt nước.
Trước đây, trong cuộc sống trần gian, Ladarô đói khát mong ước được ăn những
thứ thừa từ bàn chủ rơi xuống, nhưng không được; bây giờ ông nhà giàu xin
Ladarô đưa ngón tay nhúng nước rồi nhỏ cho ông một giọt nước, mà cũng
không được nhận. Trong cuộc sống trần gian, ông đã biết và chỉ quan tâm đến thú
vui, thoải mái, sự xa hoa và những thứ tinh tế. Với của cải của ông, ông có thể
cho phép mình có mọi sự. Nhưng cách thức ông đã sử dụng của cải và tiêu xài
cuộc sống đã đẩy ông vào một tình cảnh trong đó ông phải chịu đau đớn và
dày vò, nhung nhớ và nguyện ước không nguôi; chính ông tự tách khỏi sự hiệp
thông với tổ phụ Abraham và với Thiên Chúa.
Tác giả không giải thích trong bài dụ ngôn vì sao ông nhà giàu phải chịu
đau khổ, còn Ladarô thì thoát khỏi đau khổ. Các hoàn cảnh sau cái chết của họ
chỉ được hiểu ngầm trong bài là xứng đáng với họ. Tổ phụ Abraham không nói rằng
vì ông nhà giàu có của cải trên trần gian, nên bây giờ phải chịu đau khổ; ngài
chỉ muốn khẳng định rằng ông ấy đã có của cải ở trần gian, nhưng sự giàu có
không theo ông vào âm phủ được. Chúng ta hiểu rằng đời sống trước đây trên mặt
đất phải chịu trách nhiệm và là nguyên nhân của những tình cảnh sau cái chết.
Lời ông nhà giàu kêu “lạy cha Abraham (của con)” xin giúp đỡ và lời tổ phụ
Abraham nói “con (của ta)” để từ chối cho hiểu quan hệ thân thương này vẫn
không chặn được các ngọn lửa và cơn khát nơi âm phủ. Nhưng lời kêu cứu của ông
cũng cho hiểu là có một dây liên kết cốt thiết giữa ông và Ladarô; mặc dù có
những khác biệt lớn lao giữa hai người, họ vẫn là anh em gần gũi và phải yêu thương
nhau. Thế nhưng bây giờ, “giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn,
đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên
chúng ta đây cũng không được” (c. 26), nghĩa là không thể thay đổi phần thưởng
hay hình phạt nữa, khi mà cuộc sống đã chấm dứt. Mối quan tâm của ông nhà giàu
cho số phận của năm người anh em sau này gợi ý là sau khi chết, không còn có
thể thay đổi được nữa.
Chúng ta ghi nhận là không phải là Ladarô đã lập luận để trả lời cho ông
nhà giàu, mà là tổ phụ Abraham, tức Nguồn Mạch của Do Thái giáo. Rất hợp lý là
cha của tất cả mọi con dân Israel giải thích cho hiểu vì sao Ladarô không thể
giúp gì cho ông nhà giàu. Lý do thứ
nhất: ông nhà giàu đã có các thứ tốt lành khi còn sống ở đời; còn Ladarô
thì chỉ toàn gặp bất hạnh. Bây giờ ông nhà giàu phải đau khổ còn Ladarô được an
ủi. Điểm nhắm trong lời nói của tổ phụ Abraham là cung cấp lý do vì sao đau khổ
của ông nhà giàu không thể chấm dứt: do sống trong tình trạng bị dày vò lúc
này, ông phải nhớ lại rằng ông đã có các thứ tốt lành trong cuộc sống trần gian
và nhớ là bây giờ ông phải chịu đau khổ. Bên kia, Ladarô không bị buộc phải từ
bỏ tình trạng hạnh phúc của anh; anh đã phải chịu đau khổ suốt đời, nên nay anh
được an ủi. Lời của tổ phụ Abraham chỉ nhắm giải thích một điều: không phải vì
sao mỗi người đang ở nơi họ đang ở, nhưng vì sao không thể yêu cầu Ladarô giúp
đỡ ông nhà giàu.
Lý do thứ hai: theo quan niệm về âm phủ nói trên, có một sự ngăn cách không
thể vượt qua giữa cái tốt và cái xấu: “giữa chúng ta đây và các con”, tổ phụ
Abraham kể cả chính ngài vào đó. Vậy, sự ngăn cách này do một Đấng Khác quy
định bất di bất dịch, chứ không do bất cứ thụ tạo nào. Tình trạng bất khả thông
thương này chấm dứt mọi tranh luận về việc Ladarô giúp đỡ ông nhà giàu.
* Phần hai của đối thoại: Sứ điệp cho “năm người anh em” và cho các môn đệ
Đức Giêsu: lắng nghe Lời Chúa (27-31)
Ông nhà giàu nhìn nhận rằng chính lối sống của ông trước đây trên mặt đất
đã đưa ông đến tình trạng này. Do đó ông mong muốn là anh em ông được nhắc nhở
thay đổi đời sống để khỏi rơi vào số phận đau đớn như ông. Rất có thể những
người này đang sống dưới một mái nhà với ông, nên ông biết rõ lối sống của họ.
Cách thức thực hiện điều này, như ông đề nghị, là gửi Ladarô về khuyến cáo các
anh em ông về mối nguy hiểm đáng sợ đang ở trước mắt. Tổ phụ Abraham trả lời:
“Chúng đã có Môsê và các Ngôn sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó”. “Môsê và
các Ngôn sứ” là tên gọi bộ Kinh Thánh. Như thế, muốn tránh được lộ trình đưa
đến số phận đau đớn thì hãy lắng nghe Lời Chúa. Từ đó, chúng ta hiểu rằng trong
khi còn sống, ông nhà giàu đã không lắng nghe, tức không vâng theo “Môsê và các
Ngôn sứ”, Lời Chúa, với luật căn bản là mến Chúa yêu người.
Nhờ trung gian của
Kinh Thánh, Thiên Chúa truyền đạt cho chúng ta biết ý muốn của Ngài, Ngài ban
cho chúng ta những quy luật sống đúng đắn để đưa chúng ta đến đích. Ý muốn của
Thiên Chúa không hề khó tuân giữ, như sách Đệ nhị luật đã khẳng định:
“Quả thế, mệnh lệnh tôi truyền cho anh em hôm nay đây, không vượt quá sức lực
hay ngoài tầm tay anh em. Mệnh lệnh đó không ở trên trời […]. Mệnh lệnh đó cũng
không ở bên kia biển […]. Thật vậy, lời đó ở rất gần anh em, ngay trong miệng,
trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành” (Đnl 30,11-14). Trong
Kinh Thánh, có chỗ nói rõ ràng về trách nhiệm xã hội đối với những người nghèo.
Nay ta có thể giải thích rõ ràng nhất bức tranh Đức Giêsu đã vẽ ra trong bốn
câu đầu của dụ ngôn: Ông nhà giàu đã bỏ qua ý muốn của Thiên Chúa, không quan
tâm đến Thiên Chúa, đã chỉ tìm kiếm tiện nghi và thú vui cho riêng mình. Do đó,
ông đã phải đi đến đau khổ hiện tại.
Ông nhà giàu không
phủ nhận tính đúng đắn của lời tổ phụ Abraham nói, nhưng ông nghĩ rằng anh em
ông sẽ vâng theo hơn, nếu có người, như Ladarô, từ cõi chết trở về truyền đạt
sứ điệp Môsê. Chắc chắn Ladarô không có gì hơn Môsê mà nói; giá trị của anh nằm
ở chỗ anh có thể làm chứng về thế giới âm phủ. Nhưng câu trả lời của tổ phụ
Abraham là một lời bình luận về trái tim con người. Nếu người ta không muốn
vâng nghe Môsê và các ngôn sứ, thì người từ cõi chết trở về cũng chẳng lay
chuyển được lòng dạ của họ. Lời tổ phụ Abraham phân tích một con tim sống trong
tội rất có thế giá: bài dụ ngôn nhắm điều này, nên đã kết thúc ở đây với nhận
xét của tổ phụ Abraham. Thật khó mà đưa trái tim con người đến chỗ hoán cải!
+ Kết luận
Trong bài dụ ngôn, Đức
Giêsu cho thấy một cuộc đảo lộn tình thế và nguyên nhân của cuộc đảo lộn
này. Những gì Người loan báo ở đây là nhắm ban cho các “anh em” (c. 28) ông nhà
giàu một lời giáo huấn và khuyến cáo, để họ khỏi mất linh hồn vì những
thú vui do của cải giàu sang, trái lại biết nghiêm túc tìm thánh ý Thiên Chúa.
Các lời này của Đức Giêsu cũng là một an ủi cho người nghèo, vì tuy trên
trần gian họ phải sống một số kiếp đau thương nhưng họ vẫn có thề hoàn
toàn cậy trông vào sự nhân lành của Thiên Chúa.
Đức Giêsu mạnh mẽ loan
báo rằng cuộc sống trần gian không phải là tất cả và các hoàn cảnh hiện thời
trong cuộc đời không đơn giản được lặp lại sau cái chết. Ai không nhìn sang bên
kia cuộc sống trần thế và niềm vui sống, thì sau cái chết sẽ phải gặp một
chuyện kinh ngạc đau đớn. Đối với mọi người, giàu hay nghèo, cần phải quy hướng
cuộc sống mình về ý muốn của Thiên Chúa. Đây là con đường duy nhất để tránh
được diệt vong và đạt được sự hiệp thông vĩnh cửu với Thiên Chúa.
Còn có một hướng suy
nghĩ khác: sau khoảng năm mươi năm Đức Giêsu đã ban dụ ngôn này, phải chăng tác
giả Lc muốn ám chỉ rằng người ta cũng sẽ không nghe Đức Giêsu, Đấng đã
sống lại từ cõi chết? Sách Công vụ đã nêu lên nhiều bằng chứng về sự
“không nghe” này. Nếu hiểu như thế, bài dụ ngôn cũng có sức quy chiếu về Đức
Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Hai người ở cách
nhau có ít bước, thế mà dường như không gặp nhau. Ladarô cứ việc nằm vất vưởng
đau bệnh trước cửa; ông nhà giàu biết anh, nhưng sống như không hề có Ladarô.
Khi người ta tin tưởng vào tiện nghi, vào của cải, vào “phát triển”, người ta
trở thành đui mù, không thấy người khác với các nhu cầu của họ. Sau này, ông
nhà giàu không hề biện minh: Tôi không gây rắc rối gì cho Ladarô. Tôi tôn trọng
quyền tự do của anh. Anh ta đâu có hề xin tôi điều gì! Ông biết ông đã sai khi
không sống những điều Lời Chúa dạy.
2. Ông nhà giàu có tất
cả mọi sự trên đời và dường như ông đã đạt được mục tiêu của cuộc đời. Nhưng
chính cái chết cho hiểu rằng cuộc sống trần gian không phải là tất cả. Phải
sống cuộc sống trần gian, phải sử dụng của cải vật chất thế nào, để sau khi
chết, người ta đạt được cuộc sống viên mãn. Dĩ nhiên Đức Giêsu không muốn nói
đến một vài sai lỗi nhất thời; Người dạy chúng ta về giá trị của chọn
lựa căn bản: có những chọn lựa trong cuộc sống hôm nay rất hệ trọng, bởi vì
liên hệ đến cuộc sống vĩnh cửu sau cái chết.
3. Ông nhà giàu chết,
và phải chịu cực hình. Điều này không có nghĩa là chỉ nguyên vì ông có của cải
trong cuộc sống trần gian, mà dứt khoát ông bị hành hạ trong thế giới bên kia.
Nếu ông bị đau đớn là vì ông đã không biết sử dụng của cải cho khôn khéo, như
đã được nói đến ở cc. 9,14-15. Hôm nay chúng ta cũng được mời gọi xét lại xem
chúng ta có chăng khả năng thấy nơi mỗi con người và nơi các nhóm người và các
dân tộc, một Ladarô nghèo khó đang ở trước cửa nhà chúng ta. Chúng ta có
nhận ra được những nhu cầu của họ chăng? Chúng ta đã và còn sẽ làm gì cho họ?
4. Sau khi chết, không
còn có thể thay đổi được số phận nữa. Chính vì thế Đức Giêsu đã ra sức thúc
bách người ta “thay đổi ngay bây giờ”. Không có một giáo huấn nào của Tân Ước
cho thấy là ta còn có thể hoán cải sau khi chết. Lời Chúa có đó để hướng dẫn
chúng ta đạt được cứu cánh của cuộc đời chúng ta. Muốn lắng nghe Lời Chúa, ta
phải có con tim sẵn sàng và rộng mở. Nếu con tim đã trở nên đui mù và chai cứng
vì ích kỷ, không quan tâm đến Thiên Chúa và người thân cận, thì các phép lạ và
các sứ giả từ bên kia thế giới trở về cũng chẳng giúp lay tỉnh được.
5. Điều mà bài dụ ngôn
lên án, đó là không biết nhận ra tình trạng của bản thân để thay đổi. Có một
cuộc đời để đáp lại các tiếng gọi và có một lúc cuối cùng, vẫn còn có thể làm
được điều gì đó. Người gian phi tại đồi Sọ đã có sự khôn ngoan đúng lúc. Trong
một thoáng chốc, anh đã biết sử dụng Lời như một cái kềm để nhổ các cây đinh
của cuộc sống gian ác của anh và nắm bắt được thiên đàng: “Giêsu ơi, xin nhớ
đến tôi” (Lc 23,43).
Lm FX Vũ Phan Long, ofm