CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG
NIÊN C
2V 5,14-17 ; 2Tm 2,8-13
; Lc 17,11-19
HÃY TẠ ƠN CHÚA
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 17,11-19
(11) Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi qua biên giới giữa hai
miền Sa-ma-ri và Ga-li-lê. (12) Lúc Người vào một làng kia, thì có
mười người phong cùi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa (13) và kêu
lớn tiếng: “Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi !” (14) Thấy vậy, Đức Giê-su
bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế”. Đang khi đi thì họ đã
được sạch. (15) Một người trong bọn thấy mình được khỏi, liền quay
trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. (16) Anh ta sấp mình dưới
chân Đức Giê-su mà tạ ơn. Anh ta lại là người Sa-ma-ri. (17) Đức Giê-su
mới nói: “Không phải cả mười người đều được sạch sao ? Thế thì chín
người kia đâu ? (18) Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà
chỉ có người ngoại bang này ?” (19) Rồi Người nói với anh ta: “Đứng
dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”.
2. Ý CHÍNH: Bài Tin mừng hôm nay cho
thấy trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đã chữa cho mười người
phong cùi được khỏi do đức tin của họ vào Người, biểu lộ qua lời
cầu xin tha thiết và qua thái độ vâng lời Người dạy. Tuy nhiên trong 10
người được khỏi bệnh chỉ có một người Sa-ma-ri biết trở lại tôn vinh
Thiên Chúa và tạ ơn Đức Giê-su. Người đã trách những kẻ còn lại như
sau: “Thế còn chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh
Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” Sau đó Người nói với
anh Sa-ma-ri: “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”.
3. CHÚ THÍCH:
- C 11-13: + Trên đường lên Giê-ru-sa-lem: Đây là lần thứ ba thánh Lu-ca nói tới việc Đức
Giê-su đi lên Giê-ru-sa-lem (Lc 9,51;13,32). Thành Giê-ru-sa-lem là đích
điểm của cuộc hành trình, và cũng là nơi kết thúc cuộc đời Đức
Giê-su trước khi Tin mừng được rao giảng đi khắp thế giới (x. Lc 24,47).
+ Đức Giê-su đi qua biên giới giữa hai miền Sa-ma-ri và Ga-li-lê:
Để lên Giê-ru-sa-lem, phải đi ngang qua vùng đồng bằng sông Gio-đan và
thành Giê-ri-khô (x. Lc 18,35). + Người vào một làng kia thì có
mười người phong hủi đón gặp Người:
Để tránh cho nhiều người khỏi bị lây bệnh, Luật Mô-sê buộc những
người bệnh cùi phải sống cách xa chỗ ở của dân chúng (x. Lc 13,46). +
Họ dừng lại đằng xa: Bệnh cùi không những là bệnh đáng sợ
về thể xác, mà còn là hình phạt của Đức Chúa dành cho những tội
nhân (x. Đnl 28,27). Thời xưa vì khoa học chưa tiến bộ, nên khi thấy một
số triệu chứng nghi ngờ trên da bệnh nhân, các tư tế dễ khẳng định
họ mắc bệnh này (x. Lv 13,9-17). Người mắc bệnh phong cùi bị buộc
phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và khi thấy có người đến gần
thì phải kêu lên “Ô uế! Ô uế!” để người ta biết mà tránh xa (x. Lv
13,45). + “Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi”: Chữ
Thầy ở đây bày tỏ một lòng tin tưởng sâu xa. Chữ này chỉ thấy trong
Tin mừng Lu-ca và do các môn đệ sử dụng (x. Lc 5,5; 8,24.45). Mười
người cùi này đã làm trái với quy định Luật pháp, vì họ tin vào
tình thương của Đức Giê-su đối với bệnh nhân.
- C 14-16: + “Hãy đi
trình diện với các tư tế”: Khi ra lệnh cho các người cùi đi trình diện với các tư tế, Đức
Giê-su đã gián tiếp chữa bệnh dựa vào lòng tin của họ, biểu lộ qua
thái độ mau mắn vâng lời đến với các tư tế để được chứng nhận khỏi
bệnh (x. Lv 13,49). Và quả thật, khi đi đường thì họ đã thấy mình
được lành sạch. Qua phép lạ này, Đức Giê-su chứng tỏ Người vừa là
Đấng quyền năng, lại vừa trung thành tuân giữ Lề luật (x. Lv 14,2-3). + Lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa:
Lu-ca thích ghi nhận thái độ tôn vinh Đức Chúa của người nhận được
phép lạ (x. Lc 5,25-26; 7,16). + Anh
ta lại là người Sa-ma-ri: Người Do thái khinh thường người
Sa-ma-ri. Thế nhưng ở đây chỉ có người Sa-ma-ri là đã quay trở lại tôn
vinh Thiên Chúa. Điều này cho thấy Đức Giê-su đến cứu chuộc mọi người
không phân biệt Do thái hay dân ngoại.
- C 17-19: + “Không
phải cả mười người đều được sạch sao?”: Đức Giê-sumuốn cả 10 người đều trở lại. Nhưng
chỉ có người Sa-ma-ri. Chín người kia là người Do thái đã không trở
lại cám ơn, có lẽ do không có thói quen ấy hoặc do họ nghĩ mình là
dân ưu tuyển, có quyền đòi Chúa phải ban ơn và không cần phải cám ơn
Người. + “Đứng dậy về đi ! Lòng
tin của anh đã cứu chữa anh”: Đức Giê-su tỏ lòng ưu ái
đặc biệt đối với người Sa-ma-ri ngoại đạo, vì anh đã bày tỏ lòng
biết ơn. Người cho biết: ơn cứu độ được ban cho người ta không căn cứ
trên nguồn gốc Do thái hay dân ngoại, nhưng căn cứ trên lòng tin. Một
lòng tin thực sự phải được biểu lộ, không những bằng lời xin ơn, mà
còn bằng việc cảm tạ tôn vinh Chúa suốt cả cuộc đời.
4. CÂU HỎI: 1) Luật Mô-sê
quy định về sinh họat của các người bị bệnh phong cùi ra sao ? 2) Mười
người phong cùi đã cầu xin với Đức Giê-su thế nào ? 3) Qua việc ra
lệnh cho mười người cùi đi trình diện với tư tế, Đức Giê-su cho thấy
quan điểm của Người đối với Luật Mô-sê ra sao ? 4) Câu nào cho thấy
Đức Giê-su muốn người ta phải tỏ thái độ biết ơn Thiên Chúa ? 5) Ta phải
tạ ơn thế nào khi được ơn Chúa ban nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ và
các thánh ?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: “Không phải
cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao
không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại đạo
này?” (Lc 17,17-18).
2. CÂU CHUYỆN:
1) TẠ ƠN CHÚA KHÔNG NGỪNG:
Thi sĩ LA-MÁC-TIN (Lamartine), người Pháp đã kể lại một
giai thoại vui như sau: một hôm khi đi ngang qua một cánh rừng, ông chợt nghe thấy
một âm thanh lạ: cứ kèm mỗi tiếng búa đập đá chan chát là câu nói “Tạ ơn Chúa !”.
Thi sĩ tò mò đến gần thì thấy một người thợ đá đang miệt mài làm việc. Cứ mỗi
lần gõ búa nện vào phiến đá trước mặt là ông lại thốt ra câu nói “Tạ ơn Chúa !”.
Thi sĩ nấn ná đến gần hỏi chuyện, bấy giờ ngưởi thợ đá mới giải thích như sau: ”Tôi
đang tạ ơn Chúa !” Ngạc nhiên về lòng tin của một người mà cuộc sống xem ra khá
vất vả, thi sĩ liền bảo ông kia: “Giả như bác được giầu có thì tôi hiểu tại sao
bác luôn “Tạ ơn Chúa”. Đàng này Thiên Chúa chỉ nghĩ đến bác có một lần khi dựng
nên bác trong lòng mẹ. Sau đó Ngài chỉ ban cho bác có một cái búa này và không ngó
ngàng gì tới bác nữa. Vậy tại sao bác lại cứ phải tạ ơn Ngài như thế
?”
-
Ông nghĩ rằng Chúa chỉ nghĩ đến tôi có một lần thôi hay sao ? Người thợ đá hỏi
lại.
-
Dĩ nhiên – Lamartine nhắc lại: “Chúa chỉ nghĩ đến bác có một lần mà thôi !”
Bấy
giờ người thợ đập đá liền nói với ông khách:
-
Ông nói như vậy cũng phải thôi. Nhưng ông cũng hãy nghĩ lại mà xem: Thiên Chúa vô
cùng lớn lao lại thương nghĩ đến một người thợ đá thấp hèn như tôi, và dù Ngài chỉ
nghĩ đén tôi một lần mà thôi, lại không đủ để tôi phải tạ ơn Ngài luôn mãi hay sao
?”.
Nói
xong, người thợ đá bỏ mặc ông thi sĩ đứng đó, rồi quay lại vừa đập đá vừa tiếp
tục nói: “Tạ ơn Chúa !”; “Tạ ơn Chúa !”; “Tạ ơn Chúa !”…
2) PHẢI LUÔN TẠ ƠN CHÚA:
BAI-ƠN ĐEO (Byron Dell) kể lại câu chuyện liên quan đến ông hồi còn
nhỏ như sau: “Tôi đã lớn lên tại một nông trại miền Nê-bát-ca (
Biến cố ấy xảy ra cách đây đã 55 năm. Thế mà Bai-ơn vẫn không bao
giờ quên được. Nó làm cho ông cảm thấy xúc động và cảm phục ba rất
nhiều. Nhất là biến cố đó đã dạy cho Bai-Ơn bài học về lòng biết
ơn đối với Chúa. Từ ngày ấy, mỗi tối trước khi đi ngủ, ông đều quì
bên giường thưa với Chúa một lời cầu nguyện tự phát để cám ơn Người
đã ban các ơn lành cho ông trong một ngày qua, và cầu xin Chúa gìn
giữ hồn xác mình qua đêm bình an.
3.SUY NIỆM:
Biết ơn là thái độ của một người có giáo dục và nhân cách. Người xưa đã dạy
về lòng hiếu thảo biết ơn như sau: ”Uống
nước nhớ nguồn; Làm con phải hiếu; Công cha như núi Thái Sơn; Nghĩa mẹ như nước
trong nguồn chảy ra”… Về phạm vi đức tin, người tín hữu cần ý thức
công ơn của Thiên Chúa, để từ đó tỏ lòng biết ơn Ngài như con thảo đối với cha hiền. Vậy tại sao chúng ta phải biết ơn ? Ích lợi của sự biết ơn ra sao ? Mỗi
người chúng ta phải làm gì để tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa và tha nhân ?
1.Những lý do của lòng biết
ơn :
1) Vì biết ơn là thái độ
phù hợp với
đạo làm người: Khi chịu ơn ai chúng ta
phải tỏ lòng biết ơn họ mới hợp đạo lý như người ta thường nói: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Kẻ không biết ơn sẽ
bị khinh dể là phường “vô ơn bạc nghĩa”; “Ăn cháo đá bát”; “Vắt chanh bỏ vỏ”…
2) Vì biết ơn là biểu hiện
một người có giáo dục, có văn hóa: Một người biết nói
lời “cám ơn” cho thấy một
nhân cách tốt, có trình độ văn hóa cao và sẽ được mọi người kính nể như người xưa
dạy như sau: “Công ai một chút chớ quên. Phiền ai một chút để bên cạnh
lòng”.
2.Ích lợi cua lòng biết
ơn:
-“Lời nói không mất tiên mua; Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”: Thái độ
biết ơn sẽ được lòng của người làm ơn và chắc họ sẽ sẵn sàng giúp đỡ chúng ta
lần khác khi có dịp.
-Đặc biệt nếu cha mẹ, thầy cô, thủ trưởng… nói lời “cám ơn” với người dưới
quyền như con cái, học trò, thuộc cấp… chắc sẽ làm cho họ vui và họ sẽ kể lại
cho nhiều người khác biết về phẩm chất tốt đẹp của chúng ta.
-Tuy nhiên cần tránh thái độ “công thần” khi giúp ai
được điều gì thì hay kể công và đòi người
chịu ơn lúc nào cũng phải nhớ để đền ơn mình. Trái lại chúng ta phải coi việc
giúp đỡ tha nhân là bổn phận như lời Chúa dạy: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy
nói: Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã chỉ làm việc
bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10).
3.Hãy tạ ơn Thiên Chúa và
tha nhân:
1) Thái độ Tạ ơn Thiên Chúa
biểu lộ một đức tin chân thành:
-Ngay từ thời Cựu ước, tác giả thánh vịnh đã dạy loài người phải biết tạ ơn Thiên Chúa như sau: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”
(Tv 118,1). Thời kỳ Xuất hành, dân Ít-ra-en cũng đã bắt đầu truyền thống tạ ơn Đức Chúa qua việc dâng
lễ đầu mùa lên cho Ngài (Đnl 26,1-10).
-Đến thời Tân ước, Đức Giê-su nhiều lần nêu gương cầu nguyện tạ ơn Chúa Cha. Chẳng hạn: “Lạy
Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc
khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người
bé mọn…” (Mt 11,25-26). Đức Giê-su cũng đòi những ai nhận được ơn phải biết cám
ơn như khi Người nói vơi người Sa-ma-ri ngoại đạo vừa được khỏi bệnh phong cùi
như sau: “Không phải cả mười người đều được sạch sao ? Thế thì chín
người kia đâu ? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ
có người ngoại bang này ?” (Lc 17,17-18).
-Hội Thánh Công Giáo cũng biểu lộ lòng biết ơn Thiên Chúa bằng việc
cử hành bí tích Thánh Thể (x. Lc 22,19) được gọi là Thánh Lễ Tạ Ơn.
Trong thánh lễ, Hội Thánh dâng lời tạ ơn Thiên Chúa bằng việc dâng bánh rượu là
kết quả của lao công để sẽ biến thành Mình Máu thánh Chúa Ki-tô. Sau đó, nhờ lễ
vật rất cao trọng này, các tín hữu sẽ dâng lên Chúa Ba Ngôi tâm tình cảm tạ và
xin ơn.
3) Những cách tỏ lòng biết ơn:
-Cuộc sống chúng ta là một chuỗi những hồng ân của Chúa: Có những ơn do Thiên Chúa trực tiếp ban và cũng có những ơn Chúa ban qua người
khác. Vậy chúng ta cần phải làm gì khi nhận được những món quà ấy ? Thánh Bê-na-đo đã dạy: ”Tôi xin anh em điều này là hãy tránh thói xấu
lớn lao là sự vô ơn. Chớ gì đời chúng ta là một lời cám ơn liên lỉ... Tuy nhiên
chúng ta đừng chỉ nói lời cám ơn suông, nhưng hãy biết sử dụng những ơn lành
Chúa ban. Đó là điều Chúa đòi hỏi chúng ta”.
-Phải biết ơn bằng hành
động: Bài đọc I trong thánh lễ hôm nay cho thấy lòng biết ơn
phải được biểu lộ bằng hành động noi gương tương Na-a-man người xứ A-ram (x. 2
V 5,14-17).
-Phải vui vẻ đón nhận mọi điều xảy đến: Cám ơn Chúa vì những điều may lành như ý thì dễ, nhưng cám ơn về những điều
rủi ro trái ý lại không dễ chút nào. Vì thế chúng ta cần tập cám ơn Chúa về mọi
điều xảy đến cho ta: vui cũng như buồn, thành công cũng như thất bại, an lành
khỏe mạnh cũng như rủi ro tật bệnh… Vì những điều đó đều hữu ích cho phần rỗi
đời đời của chúng ta, như thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su đã xác quyết: "Tất
cả đều là hồng ân".
-Cần tập thành thói quen cám ơn: Cha mẹ công giáo
cần tập cho con cái biết cám ơn những người làm ơn cho mình ngay tư khi chúng
bập bẹ nói. Mỗi tối, chúng ta cũng
hãy nhớ lại những ơn tinh thần vật chất nhận được trong ngày, rồi dâng lời tạ ơn Chúa như thánh Phao-lô đã viết: "Tôi
hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi
Đức Ki-tô Giê-su" (1 Cr 1,4).
3. SỐNG LỜI CHÚA: 1) Trong
ba câu chuyện trên, bạn thích câu chuyện nào nhất ? Tại sao ? 2) Bạn
thấy việc tạ ơn Chúa khi đã nhận được ơn có hợp tình hợp lý không ?
3) Bạn có ý kiến thế nào về câu nói sau: “Tất cả đều là hồng ân:
Cuộc đời của chúng ta, dù được may lành như ý hay gặp rủi ro trái ý
cũng đều không ngòai thánh ý Chúa quan phòng, và đều mang lại ích
lợi cho phần rỗi đời đời của ta. Nên ta phải luôn dâng lời cảm tạ tri
ân Chúa” ?
4. NGUYỆN CẦU
- LẠY CHÚA GIÊ-SU, Thánh I-nha-xi-ô đã nói: “Tội lớn nhất nơi con
người là tội vô ơn”. Hôm nay, Chúa dạy chúng con bài học phải biết
cám ơn Chúa. Cám ơn Chúa như người cùi Sa-ma-ri biết quay trở lại tôn
vinh Thiên Chúa sau khi đã được lành sạch. Con phải cám ơn Chúa vì sự
cám ơn đó mang lại ích lợi cho chính con, như lời kinh Tiền tụng trong
Thánh lễ: “Việc tạ ơn không thêm gì cho Chúa, nhưng mang lại lợi ích
cho phần rỗi đời đời của con”.
- LẠY CHÚA. Đời con được dệt bằng biết bao hồng ân của Chúa mà
nhiều khi con đã chưa ý thức được. Có lẽ chẳng khi nào con tạ ơn vì
đã được làm người và được làm con cái Chúa. Có lẽ chưa khi nào con
tạ ơn vì Chúa đã ban khí trời để thở, cơm ăn nước uống, vũ trụ
thiên nhiên tươi đẹp để giúp con sống vui tươi. Cũng chưa bao giờ con tạ
ơn Chúa vì con đã được Chúa ban cho mạnh khỏe, thân xác lành lặn, tâm
hồn bình an... Quả thực, đó là những ơn to lớn mà con lại cho là chuyện
đương nhiên, nên con đã tỏ ra vô ơn với Chúa. Từ nay xin Chúa cho con
nhận ra những ơn lành Chúa đã thương ban và không ngừng dâng lời cảm
tạ tri ân Chúa. Tri ân bằng lời ca tụng Chúa và nhất là bằng một
cuộc sống luôn tuân theo thánh ý Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI
CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM