THỎa mãn vỀ bẢn thân và tin tưỞng vàO Thiên Chúa
(Luca 18,9-14 – CN
XXX - C)
1.- Ngữ cảnh
Tại điểm này của bài
tường thuật cuộc hành trình (điểm cuối, theo Luca), tác giả Lc thêm
vào một dụ ngôn khác liên hệ đến đề tài cầu nguyện, đó là dụ ngôn Người
Pharisêu và người thu thuế (18,9-14). Có lẽ bản văn này được đặt đi theo Dụ
ngôn Quan tòa bất chính vì hai bản văn giống nhau về đề tài “cầu nguyện”, chứ
không vì được nói ra trong cùng một hoàn cảnh. Đoạn này làm thành một
kết luận rất khớp với bài tường thuật cuộc hành trình của riêng Luca (9,51–18,14. Xem “Ngữ cảnh” của Lc 9,51-62), vì kết thúc bằng đề tài
quan trọng của Lc là cầu nguyện.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia
thành ba phần:
1) Mở (18,9);
2) Dụ ngôn (18,10-13);
3) Kết luận khuyến
thiện (18,14).
3.- Vài điểm chú giải
- một số người tự phụ là công chính mà khinh
chê người khác (9): Dịch sát là “những người tin chắc về bản thân họ rằng họ là
công chính và cư xử với phần còn lại (của loài người) với sự khinh bỉ”. Mặc dù
tác giả không có ý nói đây là những người Pharisêu, những lời của Đức Giêsu ở
16,14-15 vẫn gợi ý như thế. Tuy nhiên, bản văn cũng nhắm đến một nhóm mở
rộng hơn, theo như lời Ed 33,13,
nghĩa là đúng cho cả các môn đệ của Đức Giêsu.
- lên Đền Thờ (10): Từ ngữ “Đền Thờ” nói đến hai điều. Trước tiên, vì Giêrusalem được
xây dựng trên một quả núi với bốn đỉnh, vua Salômôn, nhằm xây dựng một nơi để
thờ phượng Đức Chúa, đã san bằng một đỉnh để làm một cái nền làm lễ đài, trên
đó, ông quy tụ dân Israel lại để làm công việc thờ phượng. Ta có thể tưởng
tượng lễ đài này có hình thang, chung quanh có tường, các bức tường chạy từ bắc
xuống nam dài khoảng 450m. Trên cái nền này, có một số công trình xây dưng, để
góp phần vào việc thờ phượng Thiên Chúa. Cái nền này được gọi là Đền Thờ. Điều
thứ hai, công trình xây dựng ở tại trung tâm trên nền này được làm giống như
một cung điện. Cung điện này chạy từ tây sang đông, với một cửa ra vào ở phía
trước, cửa này nằm ở cuối phía đông. Phía sau cung điện này tiếp giáp với bức
tường phía tây của “Đền Thờ”. Cung điện này gốm có ba phòng hay vùng. Có hai
cái sân quây chung quanh (ở về phía đông của tòa nhà), tại đây các phụ nữ và
người nam
- cầu nguyện (10): Người ta có thể cầu nguyện tại Đền
Thờ vào bất cứ lúc nào trong ngày, nhưng có hai khoảng thời gian được dành cho
việc cầu nguyện chung: giờ thứ ba (tức khoảng 9g sáng; x. Cv 2,15) và giờ thứ chín (tức khoảng 3g chiều; x. Cv 3,1).
- Người Pharisêu (10): x. 5,17. Theo sử
gia Gioxép (Ant. 18.1,2 § 11), nhóm Pharisêu là một trong ba
“triết học” của người Do Thái thời ông; đôi khi ông cũng gọi họ là “phái” (haireseis;
x.
- người thu thuế (10): x. 3,12. Tên gọi
này dịch từ tiếng Hy Lạp telônês (do từ telos có nghĩa là “thuế”); La-tinh: publicanus. Nền hành
chánh Rôma quy định nhiều loại thuế: thuế thổ trạch, thuế động sản, thuế gián
thu, đặc biệt đánh trên việc nhập cảng muối. Những “người thu thuế” thường được
giao cho nhiệm vụ thu khoản thuế cuối cùng này. Vì thế họ thường có mặt tại các
trạm quan thuế (Caphácnaum: Mc 2,14;
Giêrikhô: Lc 19,2). Vì do nghề
nghiệp, họ phải tiếp xúc thường xuyên với mọi hạng người, kể cả người ngoại
giáo, nên họ bị coi là những người ô uế. Quy định mức thuế là quyền của chính
quyền, nhưng thường được áp dụng cách võ đoán, nên người thu thuế bị dân chúng
khinh bỉ, và danh từ “người thu thuế” tương đương với “hạng tội lỗi” công khai
(x. Mt 9,10-11; Mc 2,16; Lc 5,30; 7,34;
15,1; 19,2-7), hạng ngoại đạo (x. Mt
18,17; 21,31), và hạng trộm cướp (x. Lc
3,2t). Một người Do Thái đạo đức tuân giữ lề luật thì chẳng có gì phải giao
dịch với người thu thuế.
- đứng thẳng (11): Chúng ta không biết ông này đứng ở
đâu, nhưng dựa vào câu đối lập là c. 13, ta có thể suy ra là ông đứng trước Sân
dành cho
- Lạy Thiên Chúa, xin rủ lòng thương con là kẻ tội lỗi (13): Người thu thuế
cầu nguyện trong tinh thần của Tv 51;
anh nói ra lời xin được thương xót và tha thứ, chứ không phải tạ ơn. Trong tình
trạng bế tắc, anh đọc những câu đầu tiên của Tv 51 và chỉ thêm vào “ là kẻ tội lỗi” theo nghĩa đối lập: “Lạy
Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con” (c. 3) “là kẻ tội lỗi”, tức
là “dù con là kẻ tội lỗi”. Nhưng cũng trong Tv
này, có câu: “Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm
lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê” (c. 19). Đức Giêsu cho thấy Thiên
Chúa giống như được Tv mô tả: Ngài
chiếu cố đến người tội lỗi đang tuyệt vọng và Ngài không chiếu cố đến kẻ chỉ
cậy dựa vào “sự công chính” của riêng mình.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Mở (9)
Hoàn
cảnh đưa Đức Giêsu đến chỗ kể dụ ngôn này chính là: Người thấy “một số người tự
phụ là công chính mà khinh chê người khác”. Như thế, chúng ta đã linh cảm thấy
bài này có mục đích giúp người ta hiểu thế nào là cầu nguyện đúng đắn, đâu là
sự đạo đức chân thật. Đức Giêsu giúp hiểu nhiều điều liên quan đến cách xử sự
sai lạc và cách xử sự đúng đắn đối với Thiên Chúa, đối với người lân cận và đối
với chính mình.
* Dụ ngôn (10-14a)
Bài
dụ ngôn phác ra một cảnh tưởng tượng, nhưng đối với các thính giả của Đức
Giêsu, cảnh này cũng rất thực. Ông Pharisêu, một người sống thánh thiện, hẳn là
ở trong vùng đông hoặc vùng tây, nơi mà những người nam
Trong lời cám ơn Thiên
Chúa, người Pharisêu nêu ra cả một danh mục gồm những nhân đức, như một
lý do để tự hào. Phần đầu với những yếu tố tiêu cực: Ông không giống như
những người khác (trộm cắp, bất chính, ngoại tình), nhất là “tên thu thuế kia”.
Phần hai với những yếu tố tích cực: Ông ăn chay và đóng góp quá mức được yêu
cầu. Ông nói sự thật. Nhưng ông không cám ơn Thiên Chúa bởi vì Ngài đã gìn giữ
ông khỏi điều dữ và đã làm cho ông có khả năng làm điều thiện. Ông xác tín rằng
ông nên công chính do sức lực riêng, nên ông tin là Thiên Chúa ủng hộ ông. Như
thế, ông đã diễn tả cho thấy ông hết sức bằng lòng về mình và Thiên Chúa cũng
phải bằng lòng về ông.
Khởi điểm của người thu
thuế rõ ràng là tiêu cực: anh đứng đàng xa, nhìn xuống, đấm ngực, và xin Thiên
Chúa đoái thương anh là kẻ “tội lỗi”; anh không biện minh gì về những gì anh đã
làm. Anh không đi vào chi tiết trong những tội lỗi của anh. Chúng ta biết một
sự vi phạm thường xảy ra trong nghề thu thuế là lừa đảo người khác (x. 3,12;
19,8). Qua phong thái của anh và nhất là trong lời cầu nguyện, người thu thuế
chứng tỏ anh nhận định đúng đắn về hoàn cảnh và tình trạng của mình. Anh là một
kẻ tội lỗi, nhưng anh nhìn nhận như thế; anh biết mình không xứng đáng được
tha thứ, bởi vì muốn được tha thì phải bỏ đời sống tội lỗi, nghĩa là bỏ nghề,
và phải đền bù (số tiền đã lấy cộng thêm một phần năm); mà làm sao có
thể biết những ai là nạn nhân của anh để đền bù. Do đó, tình trạng của anh là
vô vọng. Tuy nhiên anh biết là Thiên Chúa có thể cứu anh khỏi tình cảnh vô vọng
này, Ngài có thể tha thứ cho anh, nên anh cứ kêu cầu. Chính vì thế, anh lại tìm
được tình trạng công chính trước mắt Thiên Chúa: anh ta được Thiên Chúa tha
thứ. Trong khi đó, người Pharisêu nghĩ rằng tự mình đã đạt được sự công chính,
vì ông vẫn tránh trộm cắp, ngoại tình, làm điều gian ác, và lại còn ăn chay và
cúng dâng cho nhà Chúa. Nhưng Đức Giêsu cho biết: trước mắt người đương thời,
ông này chẳng phải là “người thu thuế” hay kẻ “tội lỗi”, nhưng ông không tìm
được tình trạng “công chính trước mắt Thiên Chúa”, vì ông tự mãn.
Bài dụ ngôn nhắc lại
phản ứng của Đức Giêsu đối với hai kiểu đạo đức, nhưng cũng cho một ví
dụ về cách Người khẳng định thái độ đối với người Pharisêu và người thu thuế
trong xã hội Paléttina đương thời (x. 5,20-32; 7,36-50).
* Kết luận khuyến thiện (14b)
Kết luận đã có ở 14,11,
cho thấy rõ rằng dụ ngôn không chỉ được ngỏ với những người đương thời Đức
Giêsu, nhưng còn cho các môn đệ Đức Giêsu (các Kitô hữu) nói chung.
Bản văn cung cấp nhiều
gợi ý phong phú do sự tương phản giữa hai nhân vật, hai thái độ ở trong Đền Thờ,
và do những lời hai người thưa gửi với Thiên Chúa. Chúng ta chẳng bao giờ biết
được người Pharisêu đã phạm tội gì hoặc người thu thuế đã đền bù được gì. Đức
Giêsu đã để chuyện ấy lại cho phán xét của Thiên Chúa (hoặc cho trí tưởng tượng
của độc giả). Người chỉ tuyên bố rằng một người thì được nên công chính dưới
mắt Thiên Chúa, còn người kia thì không. Và độc giả hiểu được lý do: người ta
không đạt được sự công chính do tự hào hoặc thậm chí do sinh hoạt theo kiểu tự
tin vào bản thân hay làm việc thiện khi tuân giữ Luật Môsê và các quy tắc
Pharisêu, mà là do biết nhìn nhận bản thân dưới mắt Thiên Chúa.
+ Kết luận
Có những nhà chú giải
cho rằng Đức Giêsu muốn ban một giáo huấn về việc cầu nguyện, hoặc về sự
khiêm nhường, hay về việc cầu nguyện khiêm tốn. Trong thực tế, ta có thể theo ý
kiến của đa số mà cho rằng Đức Giêsu ban một giáo huấn về hai kiểu sống
nội tâm.
Cách thức chúng ta hành
động và chịu đựng, hoàn cảnh trong đó chúng ta được đặt vào hoặc trong đó chúng
ta rơi nào, có một tầm mức đáng kể trước mặt Thiên Chúa. Tuy nhiên, quan
trọng hơn, đó là cách thức chúng ta nhìn và sống những điều ấy trước nhan Thiên
Chúa. Đức Giêsu diễn tả minh bạch điều này qua lời cầu nguyện của người
Pharisêu và người thu tuế. Cả hai trình diện trước nhan Thiên Chúa và đưa đến
cho Ngài hoàn cảnh trong đó họ đang sống. Bản thân họ, các cách họ sống và các
lời họ cầu nguyện khó mà có thể được giới thiệu trong thế mâu thuẫn sâu sắc hơn
được nữa. Đức Giêsu tuyên bố dứt khoát về cách Thiên Chúa theo đó mà đánh giá
lối sống của họ, và như thế, Ngài đã cho biết đâu là cách xử sự đúng đắn trước
mặt Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Độc giả hiện đại có
thể nghĩ rằng ít ra người Pharisêu cũng lương thiện với chính mình, vì tuy ông
khoe khoang trước mặt Thiên Chúa, ông cũng đang cố gắng sống công chính, cố
gắng giữ các điều răn, và thậm chí còn làm hơn thế nữa, trong khi người thu
thuế dường như chẳng hề cố gắng gì hay cố gắng không bao nhiêu. Do đó, độc giả
hôm nay khó mà tự đồng hóa với người thu thuế. Tuy nhiên, lý luận như thế là ép
bản văn quá ý hướng của nó. Bản văn chỉ muốn nêu ra một khía cạnh là sự
khoe khoang và kích thích độc giả suy nghĩ thêm; nhưng phần suy nghĩ thêm không
được che mất điểm chính của sứ điệp.
2. Thật đáng khen khi ta biết tránh những điều
xấu và làm những điều tốt. Cũng thật đáng khen khi biết cám ơn Thiên Chúa về
những ân huệ Ngài ban. Chúng ta sẽ không bao giờ cám ơn Thiên Chúa cho đủ được.
Do đó, cần coi chừng khuynh hướng pharisêu: coi những điều mình đã làm được như
là những công trạng riêng, chứ không phải là những ơn Chúa; coi những việc đó như
một điểm tựa cho phép mình được đánh giá mình cao hơn và từ đó, nhìn
xuống kẻ khác với ánh mắt khinh bỉ. Những người Pharisêu hôm nay đang khẳng
định: “Tôi không giết ai cả; tôi chẳng ăn cắp của gì của ai; tôi không hề ngoại
tình. Tôi có gì phải trách mình đâu? Tôi có cần gì đến bí tích hòa giải? Mọi sự
nơi tôi đều phải phép mà! Thiên Chúa cũng như người ta phải bằng lòng về tôi
thôi, cũng như tôi vẫn đang bằng lòng về tôi đây này!”. Nhưng khi nói như thế,
người này không thấy rằng Thiên Chúa không những cấm làm những điều tồi tệ như
ngoại tình, giết người và trộm cắp, nhưng còn truyền người ta yêu mến Thiên
Chúa trên hết mọi sự và yêu thương nhau như chính mình. Như thế, ai còn có thể
bằng lòng về mình?
3. Đứng trước lệnh truyền yêu thương, chúng ta
phải thường xuyên suy nghĩ, nhìn nhận những thiếu sót của mình và bắt đầu lại
không ngừng, với lòng tin tưởng vào sự trợ giúp của Thiên Chúa. Điểm khởi hành
của người Pharisêu thì tốt. Nhưng chính những điều ông làm là tốt đã đẩy ông
đến chỗ chắc chắn về mình khi đứng trước nhan Thiên Chúa, nên ông đã tỏ ra ngạo
mạn đối với người thân cận; ông trở nên mù quáng và tự mãn, nên thành thiếu sót
đối với những bổn phận lớn hơn.
4. Hôm nay chúng ta cũng có dịp xét lại cách
thức chúng ta cầu nguyện. Chúng ta có thể tự hỏi về những thái độ chúng ta
thường có khi cầu nguyện. Phải chăng đó là những thái độ hướng chiều về sự tự
phụ, tự mãn, hoặc nghi kỵ đối với Thiên Chúa? Chúng ta có thẳng thắn và khiêm
nhường trình bày hoàn cảnh của mình trước nhan Thiên Chúa chăng, hay là chúng
ta không màng thưa chuyện với Ngài, lấy cớ là không nên quấy rầy Thiên Chúa?
5. Cuối cùng, một hệ luận có thể rút ra
là: Ai đã làm được những điều đúng đắn, thì cũng đừng sao nhãng những bổn phận
lớn hơn khi tỏ ra tự phụ, ngạo mạn khinh bạc hoặc đi theo sự mù quáng của mình.
Còn ai thấy mình còn trĩu nặng tội lỗi, thì đừng coi thường hoặc thất vọng,
nhưng cứ tin tưởng quay về với Thiên Chúa, vì Ngài không bao giờ từ chối tha
thứ cho ai khiêm tốn xin Ngài ban cho.
6. Qua dụ ngôn trên, chúng ta thấy việc cầu
nguyện không phải là một sinh hoạt phụ thuộc, bên lề cuộc sống của một
con người, nhưng lời cầu nguyện của một người chịu ảnh hưởng của lối
sống tổng quát của người ấy. Như thế, lời giáo huấn về cách cầu nguyện đúng đắn
trở thành lời giáo huấn về cách cư xử đúng đắn.
Lm FX Vũ
Phan Long, ofm