THIÊN
CHÚA LÀ THIÊN CHÚA CỦA KẺ SỐNG
(Luca 20,27-38 – CN XXXII - C)
1.- Ngữ cảnh
Cho đến đây, chúng ta
chưa hề nghe nói đến người Xađốc trong Tin
Mừng Luca. Nay những người
này đến gặp Đức Giêsu để điều tra về giáo huấn của Người. Họ đặt câu hỏi dựa
trên luật thế huynh để xem Đức Giêsu nghĩ gì về việc kẻ chết sống lại. Như
trong giai thoại trước (Lc 20,20-26),
Đức Giêsu giải quyết vấn nạn kiểu giải nghi theo cách bất ngờ khiến các kinh sư
cũng phải thán phục. Gọi là “giải nghi”, vì ở đây câu hỏi được đặt ra không
nhắm đến bản thân Đức Giêsu hoặc quan hệ của Người với giới chức Giêrusalem.
Câu hỏi mang tính lý thuyết, mà rất có thể thường được người Xađốc đặt ra cho
người Pharisêu.
Tác giả Lc lấy
bản văn này (đặc biệt các câu 27-43a.37.38a) chủ yếu từ Mc 12,18-27, nhưng thỉnh thoảng chỉnh lại bằng hy-ngữ trau chuốt
hơn.
2.- Bố cục
Bản
văn có thể chia thành ba phần:
1)
Mở đầu (20,27);
2)
Vấn nạn của nhóm Xađốc (20,28-33);
3)
Câu trả lời của Đức Giêsu (20,34-38):
a) Lập luận của chính
Đức Giêsu (cc. 34-36),
b) Nền tảng Kinh Thánh
của sự sống lại (cc. 37-38).
3.- Vài điểm chú giải
- Xađốc (27): Tên Hy Lạp Saddoukaioi (Saddouk
trong LXX) nói lên liên hệ với tên riêng Híp-ri Sadôq (2 Sm 8,17; Ed 40,46; 43,19). Con cháu của ông Sadôq được đặc ân là phục vụ Đền
Thờ trong tư cách tư tế sau khi hồi hương từ đất lưu đày
- phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh
hay em mình (28): Loại hôn nhân này được gọi là “thế huynh” (Anh: levirate)
do từ La-tinh levir, có nghĩa là “anh/em của chồng, anh/em rể”. Một hôn
nhân như thế không bị coi là vi phạm Lv
18,16; 20,21, vì người anh/em đã chết.
- ngang hàng với các thiên thần (36): Từ ngữ isangelos
do hai từ Hy Lạp isos [“ngang hàng; giống như”] + angelos [“thiên
thần”] ghép lại với nhau.
4.- Ý nghĩa của đoạn văn
* Mở đầu (27)
Hết nhóm này đến nhóm
khác, những nhóm có thế lực nhất, đến gặp Đức Giêsu để đặt ra cho Người những
câu hỏi. Những người Xađốc cũng đến. Cho đến nay, Tin Mừng III chưa hề nói
đến phái này. Họ là những người giàu theo một tôn giáo truyền thống. Họ cộng
tác với chính quyền, nên dân chúng không ưa họ. Các thượng tế đều thuộc phái
này. Tác giả Lc xác định ngay rằng họ không tin vào sự sống lại.
Quả thật, họ thường tranh cãi với người Pharisêu về sự sống lại của kẻ chết.
Người Pharisêu tin vững và sự sống lại, còn người Xađốc thì cực lực phủ nhận
(là những người giàu, họ có thể thụ hưởng thiên đàng ngay tại trần gian này).
Trên cái “phông” này, độc giả hiểu câu truyện họ kể cho Đức Giêsu.
* Vấn nạn của nhóm Xađốc (28-33)
Từ những gì Đức Giêsu nói, người Xađốc nhận ra
rằng Người đồng ý với phái Pharisêu: Người tin vào cuộc sống vĩnh cửu. Thế là
họ ngỏ lời với Đức Giêsu như với một vị thầy để Người dạy cho biết cách
giải thích một quy định của Luật Môsê. Họ đã tổng hợp Đnl 25,5 và St 38,8, để gợi lại quy định về những cuộc hôn nhân thế huynh. Tập
tục các cuộc hôn nhân này (một người anh/em rể phải sinh con nhờ kết hôn
với người vợ goá của em/anh mình, hầu có con nối dõi cho người quá cố) rất phổ
biến bên Cận Đông thời cổ (với người Átsua, Híttít,
* Câu trả lời của Đức Giêsu (34-38)
Phần
đầu của câu trả lời (cc. 34-36) của Đức Giêsu là để đánh đổ tiền đề của người
Xađốc cho rằng cuộc sống của thời sẽ đến là cuộc sống này nối dài. Người nhấn
mạnh rằng hôn nhân là một định chế của “đời này”: bởi vì người ta sẽ
chết, nên hôn nhân được thiết lập hầu nhân loại tồn tại được. Nhưng trong “đời
kia”, khi người ta không chết nữa, họ “giống các thiên thần”, họ trở thành “con
cái Thiên Chúa” và “đạt được sự sống lại”, thì không còn chuyện cưới vợ lấy
chồng nữa. Như thế, câu hỏi của người Xađốc cho thấy họ hiểu lầm. Qua các câu
34-36, Đức Giêsu không giải thích Kinh Thánh, nhưng nhắm điều chỉnh ý tưởng sai
lạc người Xađốc đã có về đời sau, Người cũng không giải thích giáo huấn của
phái Pharisêu về sự sống lại. Nhóm Xađốc đã hiểu lầm rằng cuộc sống tương lai
chỉ là một nối tiếp cuộc sống trần thế; nhưng hoàn toàn không phải thế! Sự sống
lại không phải chỉ là thức day từ ngôi mộ và lay lại cuộc sống trước kia. Cuộc
sống của chúng ta với Thiên Chúa hoàn toàn khác với cuộc sống hiện nay. Cuộc
sống với Thiên Chúa sẽ như thế nào, chúng ta không biết. Điều này giống như một
đứa bé còn đang ở trong lòng mẹ, nó không có một ý niệm nào về cuộc sống đang
đến, thì chúng ta cũng chẳng thể hình dung ra cuộc sống sau này sẽ như thế nào.
Phần thứ hai của câu trả lời (cc. 37-38) là
một khẳng định về sự thật của sự sống lại. Đức Giêsu thêm một luận cứ
lấy từ Ngũ Thư: Người nại đến bản văn
Xh 3,2.6, trong đó Đức Chúa (Yhwh) hiện ra với Môsê tại núi Khôrép,
và tự xưng là Thiên Chúa của các tổ phụ đã chết từ lâu. Bởi vì Thiên Chúa là
Thiên Chúa của kẻ sống, Thiên Chúa hẳn là đã giữ cho các tổ phụ Abraham, Isaác
và Giacóp được sống bằng cách cho các ngài sống lại. Thêm vào luận cứ nói về sự
sống lại, tác giả nêu một luận cứ về sự bất tử ở c. 38b: “đối với Người,
tất cả đều đang sống” (rất giống với công thức ở 4 Mcb 7,19). Thiên Chúa đã thông giao với loài người trước tiên
không phải là nhờ các luật lệ, theo cách chung chung, không riêng tư với ai,
nhưng Ngài đã ngỏ lời với tổ phụ Abraham, Isaác và Giacóp theo cách riêng tư và
gắn kết. Lòng nhân lành của Ngài không chỉ tạm thời, nhưng vĩnh viễn; không quy
phục sự chết, bởi vì là lòng nhân lành của Thiên Chúa toàn năng và tự nó có
nghĩa là sự sống. Nếu không phải như thế, hẳn là Môsê, và sau ngài là mọi người
Do Thái khác, đã gọi Ngài là Thiên Chúa của kẻ chết!
Thật
ra lập luận đến đây cũng đã đủ. Nhưng để có những đoạn văn minh nhiên nói về sự
sống lại, chúng ta phải đi xa hơn, đến với sách Đanien và sách Khôn
ngoan, trong đó có bàn đến niềm tin của người Do Thái vào cuộc sống bên kia
cõi chết. Những người công chính đi vào trong sheôl, họ không hề hạnh
phúc, cuộc sống của họ vẫn mang tính bất toàn. Xưa nay họ đã sống theo thánh ý
Thiên Chúa, nên đời sống của họ kêu nài một phần thưởng, mong Thiên Chúa
đến kéo linh hồn họ ra khỏi sheôl, để ban cho họ một đời sống mới
hoàn hảo hơn. Đời sống này được ban cho họ vào ngày sống lại, họ có tồn tại ở
bên kia cái chết là để sống lại. Thiên Chúa đã tạo thành con người để cho con
người được sống đời đời. Chính do ma quỷ ghen tị mà cái chết đã đột nhập vào
thế gian (x. Kn 2,23-24). Tuy nhiên,
hẳn là ý định của Thiên Chúa không thể nào lại bị triệt tiêu mãi mãi do sự can
thiệp của ma quỷ. Vạy con người lại có quyền bất tử; và cách biểu lộ sự bất tử
ra tốt đẹp nhất, là sự sống lại (x. Đn
12,2).
+ Kết luận
Để
biến giáo huấn của Đức Giêsu thành trò cười, người Xađốc đã tạo ra một câu
truyện khiến chúng ta phải kinh ngạc, nhưng truyện rất có cơ sở vì phát xuất từ
một giáo huấn luân lý hoàn toàn chính xác của Lề Luật. Tuy nhiên, câu
truyện này chẳng những đã không làm cho Đức Giêsu phải lúng túng, mà còn cho
Người cơ hội tuyên bố về sự sống lại, và như thế, Tin Mừng về Nước Thiên Chúa
lại càng trở nên sáng tỏ. Chúng ta có thể tưởng tượng ra chăng Thiên Chúa tạo
ra người nam người nữ, ký kết giao ước với họ, hứa cho họ nhiều điều, bảo vệ họ
khỏi kẻ thù hãm hại, trở thành bạn của họ, rồi bỗng dưng lại bỏ rơi họ và biến
mất? Nếu Ngài làm như thế, Ngài chỉ đáng khinh mà thôi. Nhưng Đức Giêsu nói
rằng Thiên Chúa không phải là một Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là một Thiên
Chúa của người sống. Mọi người nhận được sự sống từ nơi Ngài.
Một lần nữa, Tin Mừng
này lại tỏ ra là Tin Mừng về sự sống. Nhưng Đấng nói vừa nhẹ nhàng vừa chắc
chắn về sự bất tử dành cho các thánh sẽ sống lại trong Chúa (x. Ga 11,25-26) cũng chứng tỏ rằng Người
đang có nơi mình bí quyết của sự sống vĩnh cửu ấy.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đối với người Xađốc, Thiên Chúa là một vì
Thiên Chúa của những quy định pháp lý và là một vì Thiên Chúa có quyền
năng đã bị cạn kiệt khi tạo dựng thực tại trần gian như hiện có. Đấy là những
tiền giả định mà Đức Giêsu không chấp nhận. Họ coi Thiên Chúa như là Đấng đã
ban cho dân
2. Đức Giêsu không mô tả cuộc sống tương lai;
Người chỉ nói rằng trong cuộc sống tương lai, người ta không cưới vợ lấy chồng
nữa, người ta sống như các thiên thần. Đức Giêsu không hạ cái màn xuống, không
cho bất cứ cặp mắt phàm nhân nào được nhìn sang thế giới bên kia. Người không
thỏa mãn óc tò mò của con người khi cho biết các chi tiết của đời sống tương
lai, Người chỉ giúp con người chú ý tới nền tảng của đời sống ấy: về phía Thiên
Chúa, đó là lòng nhân ái của Ngài đối với từng con người, tình yêu của Ngài đối
với loài người và quyền năng của Ngài; về phía loài người, đó là quan niệm đúng
đắn về Thiên Chúa, đức tin đặt nơi tình yêu và quyền năng của Ngài. Như vậy,
cái nhìn của chúng ta không được nhắm tìm ra một phương diện nào đó của
cuộc sống tương lai, nhưng là hướng đến Đấng ban tặng và đảm bảo cho đời sống
này.
3. Bề ngoài, người Xađốc và Đức Giêsu nói về
cùng một vì Thiên Chúa. Trong thực tế, họ quan niệm Thiên Chúa là một
Đấng Tạo hóa và Nhà lập pháp lạnh lùng, đã nói tiếng nói cuối cùng khi bố
trí thế giới hiện tại và khi ban Luật Môsê. Đối với Đức Giêsu, Thiên Chúa không
kéo con người ra từ hư vô để rồi lại đẩy nó rơi vào hư vô. Ai đã được Thiên
Chúa gọi đi tới sự sống, thì được Ngài nhắm cho đạt tới sự sống đời đời. Đối
với chúng ta, mọi sự tùy thuộc Thiên Chúa. Số phận chúng ta tùy thuộc Ngài là
ai, và là ai đối với loài người.
4. Ngày hôm nay, niềm tin vào sự phục sinh
dường như vẫn đang bị coi là chuyện lố bịch, nhưng các luận điểm đưa ra để phi
bác thì khác, chẳng hạn: Tìm ra đâu chỗ cho vô số người như thế? Rồi họ sẽ làm
gì?… Rốt cuộc các luận cứ đều tương tự vấn nạn của người Xađốc: người ta lấy
điểm tựa là trí tưởng tượng của con người, chứ không quan tâm đến quyền năng và
tình yêu của Thiên Chúa. Nếu mỗi người hiểu và tin chắc rằng, “đối với tôi,
Ngài là Thiên Chúa của đời sống bất tử của tôi”, hẳn thế giới sẽ có một chứng
từ trong sáng về Thiên Chúa.
5. Cầu nguyện cho người qua đời là việc chính
đang, nhưng phải được hiểu đúng đắn, tức là hiểu phù hợp với niềm tin của chúng
ta vào cuộc sống vĩnh cửu và vào sự hiệp thông các thánh. Các lời chúng ta cầu
nguyện cho người quá cố được đặt nền tảng trên sự chắc chắn là sự sống lại của
Đức Kitô đã gỡ hết mọi rào cản ngăn cách người sống với kẻ chết; bây giờ chỉ
còn một gia đình duy nhất. Là những người còn đang sống, chúng ta giống như các
em bé đang còn ở trong lòng mẹ chờ được sinh ra, còn những người qua đời thì đã
vào trong cuộc sống mới của họ rồi, nhưng chúng ta được liên kết với họ. Điều
này, chúng ta sống trong mỗi thánh lễ.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm