GIOAN TẨY GIẢ RAO GIẢNG
(Luca 3,1-6 – CN II MV - C)
1.- Ngữ cảnh
Giai đoạn đầu của công
cuộc rao giảng của Đức Giêsu được khoanh vùng rõ ràng. Giai đoạn này gồm một
loạt các dấu chỉ loan báo và một khối tường thuật các việc Đức Giêsu làm và các
lời Người nói tại Galilê. Kể từ 9,51, Đức Giêsu mới đi ngang qua Samari mà tiến
lên Giêrusalem.
Tác giả Luca đưa
Đức Giêsu đi vào lịch sử dưới dấu chỉ là hoàn cảnh chính trị và tôn giáo của đế
quốc Rôma và của
Đoạn 3,1-6 là phần mở chính thức của Tin Mừng Luca.
2.- Bố cục
Bản
văn có thể chia thành ba phần:
1)
Hoàn cảnh chính trị và tôn giáo (3,1-2a);
2)
Hoạt động của Gioan Tẩy Giả (3,2b-3);
3) Lời bình của tác giả theo Is 40,3-5
(3,4-6).
3.- Vài điểm chú giải
- Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế
Tibêriô (1): Hai câu đầu của
đoạn văn khiến ta vừa nhớ đến các lời tựa của các sử gia Hy Lạp (Thucydide,
Polybe …) vừa nhớ đến mở đầu sách Giêrêmia (1,1-2 LXX). Điều này gợi ý
là tác giả Lc có ý viết trong tư cách sử gia, và cũng gợi
lên ý nghĩa thánh thiêng của biến cố ngài khám phá ra nơi biến cố ông tường
thuật. Ngài nêu lên nhiều điểm quy chiếu liên kết biến cố này với lịch sử thời
ngài: khi lần lượt kể ra hoàng đế Rôma, tổng trấn của hoàng đế, ba tiểu vương
và hai thượng tế, ngài nêu bật tính long trọng đặc biệt của sự kiện.
Là chúa tể thế giới thời đó, hoàng đế
Tibêriô kế vị hoàng đế Augúttô ngày 19-8-14 kỷ nguyên chúng ta (năm 767 của
Rôma). Vậy “năm thứ mười lăm” có thể chạy từ 19-8-28 đến 18-8-29. Nhưng đa số
các nhà phê bình hiện nay cho rằng tác giả Lc tính các năm trị vì của
hoàng đế theo kiểu người Xyri, mà với họ, năm dân sự bắt đầu vào ngày 1-10. Như
thế, họ xác định năm đầu của triều Tibêriô đi từ 19-8 đến 30-9-14, còn năm thứ
mười lăm thì đi từ ngày 1-10-27 đến 30-9-28. Khoảng thời gian này phù hợp với
thời gian được ghi trong Ga 2,20 là câu đặt lễ Vượt Qua đầu tiên thuộc
sứ vụ của Đức Giêsu vào mùa xuân năm 28.
- Phongxiô
Philatô làm tổng trấn miền Giuđê (1):
Ông này làm tổng trấn Giuđê từ năm 26 đến năm 36. Các tác giả Do Thái nhận định
ông là con người “không khoan nhượng và tàn nhẫn” (đây là câu vua Hêrôđê
Ácríppa I viết trong thư gửi cho hoàng đế Caligula, được Philon ghi lại, Legatio ad Caium, 38); còn các Tin Mừng thì vĩnh viễn nối
kết ông với cuộc xử án Đức Giêsu (Tacite cũng làm như thế trong các Annales, III, 15,44). Ông cai trị miền Giuđê, Bắc Samari
và Nam Iđumê.
- Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê (1): Ông là con của Hêrôđê đại đế, có tên là Antipa, đã được làm tiểu
vương cai trị miền Galilê và Pêrê sau khi vua cha qua đời, vào năm 4 tr CG. Ông
chỉ lấy tên Hêrôđê sau khi đã hạ bệ anh là Áckhêlao vào năm 6 CN. Ông xuất hiện
nhiều lần trong các Tin Mừng: như là người đã giết Gioan Tẩy Giả (Mt
14,3-12; Mc 6,17-29; x. Lc 3,19-20), rồi như là đối thủ của Đức
Giêsu (Mc 6,14-16; Lc 13,31-32; 23,6-12). Cuối cùng ông sẽ bị hoàng
đế Caligula đưa đi lưu đày bên xứ Gôn, vào năm 39, sau khi bị cháu là Hêrôđê
Ácríppa I tố cáo.
- Philípphê làm tiểu
vương miên Iturê và Trakhonít: Ông là người con khôn ngoan nhất trong số tất
cả các con của Hêrôđê đại đế. Triều
đại bình an của ông kéo dài từ năm 4 tCN đến khi ông chết vào năm 34 CN. Thật
ra ông cai trị tất cả vùng đông bắc hồ Tibêriát (miền Gaulanít, Batanêa,
Trakhonít, Auranít và vùng Panêa, nơi ông đã xây dựng kinh đô với tên Xêdarê
Philípphê: x. Mt 16,13; Mc 8,27). Tác giả Lc cố tình kể
tên những miền đất ít có người Do Thái nhất, tức là tượng trưng cho lãnh địa
ngoại giáo.
- Lyxania làm tiểu
vương miền Abilên: Chỉ có một Lyxania, vua dân Iturê ở Khanxi, bị đại tướng Antôniô
giết vào năm 36 tCN để trừng phạt ông đã liên minh với người
Pácti. Vị tiểu vương mờ nhạt này với miền đất xa lạ với Paléttina được tác giả Lc nhắc đến có lẽ do những lý do sau: 1)
Lc thích các cấu trúc song đối và
danh hiệu “tiểu vương” (tetrarchês, trong đó có tetras, “ngày thứ
tư trong tháng”) hẳn đã gợi ý cho ông giới thiệu ra ở đây bốn miền đất lân cận;
2) Lý do lịch sử: vào lúc TM Lc được viết, tức năm 80-85, lãnh thổ
của Lyxania đã thuộc về một ông hoàng Do Thái (Hêrôđê Ácríppa II, trị vì
từ năm 53 cho đến cuối thế kỷ, kế vị vua cha là Hêrôđê Ácríppa I, trị vì từ năm
37 đến năm 44). 3) Nhưng có lẽ lý do chính là lý do thần học: miền Giuđê của
quan Philatô và miền Galilê của vua Hêrôđê là đất của Dân Thiên Chúa,
còn các miền đất của các tiểu vương Philípphê và Lyxania là đất Dân ngoại.
Khi nêu ra bốn lãnh địa này vào khởi đầu Tin Mừng của Đức Giêsu, Lc gợi ý là việc loan báo ơn cứu độ liên
hệ đến người Do Thái lẫn Dân ngoại. Thật ra ý hướng này cũng được diễn tả ra
trong việc nhắc đến song đối hoàng đế ngoại giáo và vị thượng tế của Dân Thiên
Chúa, ở đầu và cuối danh sách này.
- Khanan và Caipha làm
thượng tế (2): Công thức này gây ngạc nhiên do chỗ gán danh hiệu thượng tế
cho hai nhân vật, có tên tuổi rõ ràng, mà trong thực tế chức vụ này chỉ luôn
luôn được thực thi bởi một người mà thôi. Ở đây, tác giả Lc muốn nói lên một hoàn cảnh có
thật. Khanan đã được Quiriniô đặt làm
thượng tế vào năm 6 CN, và chín năm sau, vào năm 15, bị Valerius Gratus truất
phế. Nhưng do chỗ các tổng trấn Rôma cho năm con trai và con rể Caipha của ông
kế vị, ta hiểu ông vẫn có một uy tín đặc biệt nơi giới tư tế và dân
chúng. Dường như chính ông mới là người lãnh đạo cộng đồng Do Thái dưới các đời
thượng tế sau ông. Các tác giả Tân Ước gán cho ông một vai trò quan
trọng trong việc thẩm cứu vụ án Đức Giêsu (Ga
18,13-24).
Caipha là thượng tế từ
năm 18 đến năm 36. Vai trò của ông trong cuộc xét xử Đức Giêsu đã được Mátthêu (26,3.57.63-65) và Gioan (11,49; 18,24-28) ghi lại. Trong
vụ án này cũng như trong mọi sinh hoạt của ông, hẳn là ông làm việc hài hòa với
và dưới ảnh hưởng của nhạc phụ.
- Công bố một phép rửa
sám hối hướng tới ơn tha tội (3): Lời công bố này nối dài lời rao giảng của
các ngôn sứ Cựu Ước: y như vị Tẩy
Giả, các ngôn sứ đã kêu gọi dân Thiên Chúa “trở lại” với Đức Chúa của mình bằng
cách đoạn tuyệt với tội lỗi. Nét mới mẻ đầu tiên của Gioan là đóng ấn sự hoán
cải này bằng một phép rửa. Nhưng ông còn thêm vào một nét mới thứ
hai: ông chỉ ban phép rửa này một lần mà thôi, bởi vì Cuộc Phán Xét đang
đến gần (Lc 3,7-9.17); chỉ còn chỗ
cho một cuộc hoán cải duy nhất mà thôi để được ơn cứu độ (x. Gr 31,31; Ed 36,25). Phép rửa của Gioan không phải là phép rửa Kitô giáo có
khả năng xóa tội (Cv 2,38; 22,16):
“Đấng mạnh thế hơn … sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa” (3,16). Vai trò
chính yếu của Gioan là “bảo cho dân Chúa biết rằng Chúa sẽ tha thứ mọi tội
khiên” (1,77). Do đó dịch “hướng tới ơn tha tội” thì tốt hơn là dịch “để được
ơn tha tội”.
- như có lời chép trong
sách ngôn sứ Isaia (4): So với các tác giả Tin
Mừng khác, Lc nối dài bản văn
trích để nêu bật những yếu tố ngài coi là quan trọng. Trước tiên là Is 40,3 (x. Lc 3,5) giúp Lc nhắc lại
mối quan tâm của ngài đối với việc đề cao những người nghèo hèn và hạ thấp
những kẻ kiêu căng (Lc 1,52; 14,11;
18,14). Nhưng nhất là Is 40,5 (Lc 3,6) mới là mối quan tâm chính của ngài:
loan báo ơn cứu độ Thiên Chúa muốn ban cho “mọi xác phàm”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Sau hai chương tác giả Lc dành cho cuộc chào đời và thời tơ ấu
của Đức Giêsu, hai chương dầy đặc những quy chiếu về Cựu Ước, nay độc giả gặp
lại Gioan Tẩy Giả ra đi thi hành sứ mạng.
* Hoàn cảnh chính trị và tôn giáo (1-2a)
Chương 3 bắt đầu bằng một cái nhìn chăm chú
vào lịch quốc tế, quốc gia và địa phương. Năm của triều đại hoàng đế, của quyền
lực dân sự và quyền lực tôn giáo được nêu ra. Với khởi đầu long trọng này, độc
giả được lưu ý là các biến cố được kể ra ở đây, tuy có màu sắc hoàn cảnh địa
phương, đặt bên cạnh biên cương đế quốc, thật ra có một sắc thái vũ hoàn. Chi
tiết quy chiếu về hai tên Thượng Tế có hàm ẩn một chút châm biếm tế nhị: trên
ngai là Caipha, nhưng người vẫn điều khiển là Khanan, cha vợ ông.
Sau phần dẫn nhập lịch sử, tác giả Lc
dùng giọng văn long trọng để giới thiệu Gioan: “Có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan trong hoang địa”
(c. 2b). Bản văn giới thiệu ơn gọi ngôn
sứ của Gioan Tẩy Giả. Nhưng do giọng long trọng, ta cảm được là bản văn này
muốn đi xa hơn vị Tẩy Giả. Bên kia vị Tiền Hô, tác giả loan báo Đức Giêsu và
đặt Người vào giữa lòng lịch sử nhân loại. Chúng ta khẳng định được như thế nhờ
một số những nhận xét: 1) Thật đáng ngạc nhiên là tác giả đã dành nhiều quy
chiếu về lịch sử như thế để mở đầu hoạt động của Gioan, mà lại không nói gì để
định vị cho hoạt động của Đức Giêsu (3,21), mà chắc chắn Đức Giêsu mới là nhân
vật trọng yếu. Ta giải thích được sự bất thường này khi nhớ rằng ngay từ đầu Tin
Mừng, tác giả đã bàn về Gioan và Đức Giêsu song song và liên đới với nhau.
2) Việc liệt kê ra hoàng đế, tổng trấn và các tiểu vương chỉ thật sự cần thiết
nếu hướng về cuộc xuất hiện của Đức vua Giêsu. 3) Tác giả Lc trích sấm
ngôn Is 40 như các tác giả Tin Mừng khác để đưa lại ý nghĩa cho
sứ mạng của Gioan. Nhưng khi kéo dài câu trích cho tới tận lời loan báo sự tỏ
hiện của ơn cứu độ của Thiên Chúa, ngài cho thấy rằng trước tiên ngài nghĩ tới
cuộc xuất hiện của Đức Giêsu.
Ở đây khi nêu tên vị chúa tể ngoại giáo của
thế giới, cũng như vào dịp Đức Giêsu giáng sinh, khi nhắc đến hoàng đế Âugúttô
(2,1), tác giả Lc giữ thói quen đặt vương quốc trần gian đối diện với
Vương quốc của Thiên Chúa đã đến nơi Đức Giêsu.
Còn lý do chính là lý
do thần học: Miền Giuđê của quan Philatô và miền Galilê của vua Hêrôđê là đất
của Dân Thiên Chúa, còn các miền đất của các tiểu vương Philípphê và
Lyxania là đất Dân ngoại. Khi nêu ra bốn lãnh địa này vào khởi đầu Tin Mừng của
Đức Giêsu, tác
giả Lc gợi ý là việc
loan báo ơn cứu độ liên hệ đến người Do Thái lẫn Dân ngoại. Thật ra ý hướng này
cũng được diễn tả ra trong việc nhắc đến song đối hoàng đế ngoại giáo và vị
thượng tế của Dân Thiên Chúa, ở đầu và cuối danh sách này. Còn khi nhắc đến cả
Khanan lẫn Caipha, tác giả Lc cho
hiểu rằng thực quyền nằm nơi thượng tế đã bi truất phế.
* Hoạt động của Gioan Tẩy Giả (2b-3)
Giọng văn của c. 2b rất cổ, như kiểu giới
thiệu một ngôn sứ thời Cựu Ước. Có lẽ tác giả Lc đã cảm hứng từ Cựu
Ước và đặc biệt từ ơn gọi của các ngôn sứ (x. Is 1,1; Gr 1,1-3; Hs 1,1; Ed 1,2). Gr 1,1 LXX). Như thế, với việc Gioan Tẩy Giả ra làm việc, tác
giả cho thấy đã xuất hiện một ngôn sứ, vị đầu tiên sau một thời
gian thinh lặng gần năm thế kỷ (Tv 74,9; l Mcb 4,46; 9,27;
14,41). Ơn gọi của vị Tẩy Giả được thể hiện trong hoang địa, là nơi ông đã sống
thời trai trẻ “cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en” (1,80). Nhiều dấu chỉ cho thấy
là ông có quan hệ với phái tư tế ở Qumrân: ông thuộc dòng dõi tư tế, ông sống
trong hoang địa, ông đi rao giảng một phép rửa và cả bốn Tin Mừng
đều xác định sứ mạng của ông khởi đi từ lời sấm Is 40,3 mà Luật Qumrân
dùng đề diễn tả lý tưởng của họ (1 QS 8,14). Cho dù thế nào, kể từ nay
Thiên Chúa kêu gọi ông thực hiện một sứ mạng của riêng ông.
Theo Mt (3,1-6) và Mc (1,4-5) la hai bản văn theo sát bản Is 40,3, Gioan rao giảng
trong hoang địa và làm phép rửa tại sông Giođan ở bìa sa mạc; hoang địa là nơi
thử thách và cũng là nơi gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa. Các đoàn người đã từ
Giêrusalem và miền Giuđê kéo đến với ông (Mc 1,5; x. Mt 3,5).
Không như tác giả Mc còn nói đến lối sống khắc khổ của Gioan, tác giả TM
III cho thấy tức khắc hoạt động của vị Tiền Hô: Gioan rời hoang địa để rao
giảng khắp vùng sông Giođan như là lãnh địa riêng của ông. Rất có thể tác giả Lc
đã nghĩ rằng phép rửa ban trong hoang địa có thể khiến các độc giả ngạc nhiên,
vì họ không biết địa lý của xứ Paléttina. Trong thực tế, hai bờ sông Giođan là
vùng hoang địa. Ông đã kêu gọi dân chúng đến nhạn phép rửa để bày tỏ lòng sám
hối, hầu có thể nhận lấy ơn cứu độ mà Đức Giêsu sẽ thực hiện trong sứ vụ Vượt
Qua (Lc 24,47; Cv 3,19; 5,31; 10,43; 13,38; 26,18). Như trong Cựu
Ước, điều quan trọng hơn là lời của vị ngôn sứ (cũng là Lời Thiên Chúa),
tác giả Lc cho thấy Gioan đi rao giảng sứ điệp ông đã nhận. Lời rao
giảng của ông có những cử chỉ kèm theo, đây là phép rửa. Nhưng cử chỉ này vừa
thuộc về vị Tẩy Giả vừa thuộc về hối nhân. Như thế, tác giả nêu bật rằng lời
rao giảng mang tính ngôn sứ của Gioan đưa đến một hành vi biểu tượng chất chứa
sự thống được gợi lên bởi lời và giúp hoán cải.
* Lời
bình của tác giả theo Is 40,3-5 (4-6)
Như các tác giả Tin Mừng khác (Mt 3,3; Mc 1,3; Ga 1,23), tác giả Lc xác định ý nghĩa của sứ vụ Gioan đảm nhận khởi đi từ sấm ngôn Is 40 (cc. 3-5). Nhưng ngài đặt lời sấm
này vào cuối phần giới thiệu Gioan, để dẫn độc giả đi từ biến cố lịch sử đến
lời giải thích biến cố trong khung cảnh lịch sử cứu độ. Và ngài nối dài câu
trích để nêu bật các yếu tố ông coi là quan trọng.
TM Lc đã bỏ đi lời loan báo mở đầu của Is 40,5: “Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện”. Đối với ngài,
trách nhiệm của vị Tẩy Giả không phải là loan báo vinh quang này, vì vinh quang
này chỉ được tỏ hiện vào cuộc Vượt Qua bởi Đức Giêsu thôi. Ngài nói ngay đến
đích điểm của sấm ngôn, cũng là đỉnh điểm của sứ điệp của Gioan: loan báo ơn cứu
độ của Thiên Chúa. Đây mới là nhiệm vụ của Gioan (Lc 1,77). Lc ưa thích
nhấn mạnh trên đề tài “ơn cứu độ”: Cụ Simêôn
(Lc 2,30); Phaolô (Cv 28,26); ngài là tác giả nhất lãm duy
nhất gọi Thiên Chúa và Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ (Lc 1,47) và nói đến ơn cứu độ nơi Đức Giêsu (Lc 1,69.71.77; 19,9).
Có lẽ lý do chính đã
thúc tác giả kéo câu trích Is đến tận c. 5 là vì câu này có công thức Kinh
Thánh “mọi xác phàm”. Hẳn là ngài thấy từ này là một lời loan báo kín
đáo ơn cứu độ được cống hiến cho tất cả mọi người. Thuật ngữ mơ hồ này đáp lại
ý muốn của ngài là ghi dấu các chặng trong việc mạc khải tính phổ quát của Đức
Giêsu, là đặc tính đã được cụ Simêôn công bố (Lc 2,30-32): không phải là Gioan có nhiệm vụ loan báo rõ ràng ơn
cứu độ Dân ngoại, nhưng là Đức Giêsu.
+ Kết luận
Bản văn đã đặt hoạt
động của Vị Tiền Hô trong khung cảnh lịch sử của nó. Thời gian của hoạt động
này không còn được quy định theo triều đại của một vị vua Giuđa hay
5.- Gợi ý suy niệm
1. Cũng như ơn gọi của
Gioan Tẩy Giả, ơn gọi của chúng ta được Thiên Chúa ban cho chúng ta vào thời
đại của chúng ta. Do đó, chúng ta phải sống “trong ngày hôm nay của Thiên Chúa”
(Dt 4,7); đối với chúng ta, thời đại
chúng ta đang sống là thời đại thuận tiện duy nhất giúp phát triển tư cách Kitô
hữu của chúng ta. Cũng như Gioan Tẩy Giả, Thiên Chúa gọi chúng ta khởi đi từ
một khung cảnh đang quy định tất cả phong thái và cuộc sống chúng ta:
giống nòi, gia đình, xứ sở, khí hậu. Cách thức duy nhất để đáp trả ơn gọi chúng
ta với cùng một lòng trung thành như Gioan Tẩy Giả, đó là chấp nhận dứt khoát
thời đại và môi trường chúng ta, để làm nơi phục vụ Lời Chúa, làm khung cảnh
cho cách thức ứng xử Kitô hữu theo gương Đức Kitô.
2. Theo quan điểm của
Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là những cuộc chinh phục ngoạn mục của
các hoàng đế Rôma hay các mánh khoé của tiểu vương Hêrôđê, mà điều quan trọng
là Lời của Thiên Chúa phải được ngỏ với Gioan, con Dacaria. Trong bình diện
thiêng liêng, bình diện duy nhất hệ trọng đối với cuộc sống con người, các dáng
vẻ bề ngoài hùng mạnh và vinh quang chẳng là gì cả. Bởi vì Thiên Chúa thực hiện
những dự phóng lớn của Ngài trên thế giới bằng cách dùng những cái yếu đuối và
nhỏ bé theo thế gian. Đối với chúng ta cũng thế, dù chúng ta có nhỏ bé, giới
hạn đến đâu, Thiên Chúa vẫn có thể dùng chúng ta mà thay đổi bộ mặt thế giới,
nếu chúng ta nghe tiếng Ngài kêu gọi và hoán cải mỗi ngày.
3. Trong sa mạc cuộc
đời chúng ta hôm nay, Lời Chúa đang vang lên trên chúng ta nhờ lời rao giảng,
khi chúng ta đi dự thánh lễ. Khi đó, chúng ta không chỉ gặp gỡ các anh chị em
trong cùng giáo xứ, mà là gặp gỡ tất cả các tín hữu trên thế giới, mặc cho họ
theo thể chế nào, nghi thức nào … Chúng
ta được mời gọi điều chỉnh các nẻo đường quanh co của lòng ta: tức là hãy để ý
đến ý hướng và cách tiến hành ngay thẳng; hãy kiên vững bước đi theo con đường
thẳng của bổn phận, không ngẫu hứng, không thối lui; hãy lấp đầy các thung lũng
của lòng ta, nếu chúng còn thiếu quảng đại và lý tưởng Kitô hữu. Hãy san bằng
các đồi núi kiêu ngạo. Hãy dũa bớt những
sù sì của tính tình chúng ta và chấm dứt những chia rẽ.
4. Gioan Tẩy Giả có thể
được mệnh danh là “Nhà rao giảng của Mùa Vọng”. Mỗi năm, Phụng vụ lại giới
thiệu sứ điệp của ngài cho chúng ta.
Cũng như ngài đã chuẩn bị cho dân
5. Thiên Chúa muốn ban
ơn cứu độ cho “mọi xác phàm”. Chúng ta nên nghĩ đến đoàn người bao la chưa biết
Đức Kitô. Hãy cầu nguyện cho họ và xin Thiên Chúa ban cho nhiều ơn gọi truyền
giáo. Chúng ta cũng hãy trở thành các nhà thừa sai theo gương vị Tiền Hô, ít ra
bằng việc cầu nguyện và chu toàn trung thành nhiệm vụ cá nhân, tại nơi Chúa
Quan phòng đặt để chúng ta.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm