ĐỨc Giêsu luôn luôn hiỆn diỆn
(Gioan 14,23-29
– CN VI PS - C)
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này thuộc về Phần II của TM IV (“Sách về Giờ của Đức Giêsu”) và ở trong “Diễn từ cáo biệt
thứ nhất” (13,31-14,31): Đức Giêsu nói những lời này sau khi đã rửa chân cho
các môn đệ (13,1-20) và loan báo Giuđa phản bội (13,21-30). Người mời gọi các
môn đệ đừng hoang mang trước viễn tượng Người ra đi (14,1): Chúa Cha sẽ cử đến
một Đấng Bảo Trợ khác để trợ giúp các ông, đó là Thánh Thần (14,16-17). Còn
chính Người thì sẽ trở lại với các ông; thế gian không thấy Người, nhưng những
ai tin vào Người thì thấy được Đấng ấy (14,18-21). Giuđa đã diễn tả sự kinh
ngạc của tất cả các môn đệ: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng
con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” (14,22). Ông mơ một cuộc tỏ mình
cụ thể, khả giác, của Đức Giêsu; ông chưa hiểu là biến cố Đức Giêsu và Thánh
Thần ngự đến chỉ có thể nhận biết trong đức tin.
Thoạt nhìn, dường như câu trả lời của Đức Giêsu (c. 23)
không liên hệ đến câu hỏi và sự ngạc nhiên của Giuđa. Thực ra, câu trả lời đã
đi thẳng vào câu hỏi, bởi vì Đức Giêsu loan báo sự hiển lộ mầu nhiệm của Người
và lý do khiến thế gian không thấy được sự hiển lộ này.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Chúa Cha đến (cùng với Đức Giêsu) (14,23-24);
2) Chúa Cha sai phái Đấng Bảo Trợ đến giảng dạy
(14,25-26);
3) Đức Giêsu ban bình an và ra đi (14,27-29).
3.- Vài điểm chú giải
- lời (23):
Đối với một người Sê-mít, “lời” (logos)
có tính cụ thể; “lời” diễn tả hữu thể thâm sâu, chính bản thân con người.
- Thánh Thần… Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều (26): Từ ngữ “Thánh Thần” (to pneuma to hagion) ở
trung tính; vậy mà chủ ngữ “Đấng đó” (ekeinos) thay cho “Thánh Thần” (to pneuma to hagion, ho...) lại ở nam
tính. Khi viết như thế, tác giả muốn cho thấy rằng Thần Khí còn hơn là một xu
hướng hay là một ảnh hưởng; Người là một nhân vật, một Đấng. Có thể nói ekeinos ở nam tính vì thay cho paraklêtos, nhưng gần hơn, vẫn là thay
cho to pneuma to hagion, ho...
- sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm anh em nhớ lại (26): Bultmann có lý khi cho rằng, “dạy” và “làm nhớ lại”
không phải là hai chức năng khác nhau của Thánh Thần, nhưng là hai phương diện
của cùng một chức năng. Như thế, “dạy anh em” và “làm anh em nhớ lại”
song đối với nhau.
- bình an (27): Khi ra đi, Đức Giêsu nói shalôm (bình
an) với các môn đệ. Nhưng đây không phải là lời chào thông thường, mà là ân ban
cứu độ. Đây không phải chỉ là tình trạng không có chiến tranh, hay là chấm dứt
sự căng thẳng về tâm lý, hay là một cảm giác thư thái. Theo ngôn ngữ Ga,
“bình an”, “sự thật”, “ánh sáng”, “sự sống”, “niềm vui” là những từ mang nghĩa
ẩn dụ để diễn tả các phương diện khác nhau của ân huệ lớn lao mà Đức Giêsu đã
mang từ Chúa Cha đến cho con người. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” là
một cách khác để nói “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời” (10,28). “Bình an của
Thầy” ở đây cũng giống như “niềm vui của Thầy” ở 15,11 và 17,13.
- nếu anh em yêu mến Thầy (ei êgapate, 28): Động
từ ở thì vị-hoàn (imperfect) để nói về một điều kiện “không có thật”, chưa xảy
ra[1].
- Chúa Cha cao trọng hơn Thầy (28): Câu này đã là đề tài cho nhiều cuộc tranh luận về
Kitô học và về Ba Ngôi. Phái Ariô đã dựa vào câu này để biện minh cho Kitô học
của họ, và do đó, để chống lại thần tính của Đức Giêsu. Đã có hai cách giải
thích cổ điển: (1) Một nhóm Giáo Phụ (Origiênê, Téctulianô, Athanasiô, Hilariô,
Êpiphanê, Grêgôriô Nadien, Gioan Đamát) cho rằng bản văn diễn tả sự phân biệt
giữa Chúa Con và Chúa Cha: Con được nhiệm sinh trong khi Cha thì không. Tuy
nhiên, cách giải thích này phát xuất từ suy tư tín lý về Kinh Thánh sau này chứ không dựa trên chú giải câu văn. Cho rằng
tác giả Ga đã giới thiệu Đức Giêsu
nói với các môn đệ về quan hệ nội tại giữa Ba Ngôi là sai niên đại. (2) Một
nhóm Giáo Phụ khác (Xyrilô Alêxandria, Ambrôsiô, Âutinh) đã giải thích rằng
trong tư cách là con người, Chúa Con Nhập Thể kém hơn Chúa Cha. Lối giải thích
này thoạt tiên có vẻ có lý hơn lối giải thích trước, nhưng vẫn nhằm phân biệt
các bản tính nơi Đức Giêsu. Và đây là điều không chắc là Ga đã nghĩ tới. Không lẽ Ga
lại nghĩ đến một sự phân biệt giữa Đức Giêsu nói như con người và Đức
Giêsu nói như Thiên Chúa? Nhất là một cách phân biệt như thế có phù hợp
chăng trong Diễn từ cuối cùng, vì ở đây hơn ở bất cứ nơi nào khác, Đức Giêsu,
Đấng đang nói, siêu việt lên trên cả thời gian lẫn không gian?
Khi đã bỏ
ra ngoài sự can thiệp của khoa tín lý hình thức của thời sau này, chúng ta thấy
rất có thể chìa khóa nằm ở 13,16: “Kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi”.
“Cha quan trọng hơn tôi” nghĩa là quan trọng hơn những gì anh em đã thấy nơi
tôi. Đức Giêsu chỉ quan trọng do chỗ Người là Đấng “mạc khải” Chúa Cha. Sự phân
biệt được đưa vào không đối lập bản tính nhân loại với bản tính thần linh trong
Đức Kitô (theo cách giải thích truyền thống), mà là đối lập “cách giới thiệu
bản thân Người trong hình thức nhân loại” (trong phẩm cách Mêsia) với ý nghĩa
tròn đầy của bản thân Người trong tư cách là Thiên Chúa, đó là mạc khải Chúa
Cha. Vậy vấn đề là nhận biết Chúa Cha nơi Đức Giêsu. Khi các môn đệ đã đạt được
tới đó, sẽ không còn vấn đề thấp hơn hay cao hơn, bởi vì Chúa Cha và Người chỉ
là một.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Chúa Cha đến (cùng với Đức Giêsu) (23-24)
Đức Giêsu
khẳng định rằng người nào yêu mến Người, thì phải “giữ lời” Người, nghĩa là gắn
bó với lời loan báo của Người và nhận biết bằng đức tin những gì Người đã yêu
cầu (x. 14,15.21.23), và đáp lại bằng trọn cuộc đời dấn thân thực tế và quảng
đại. Khi ấy, họ sẽ được đón tiếp Chúa Cha. Đối với Đức Giêsu, bằng chứng cho
thấy Người liên kết với Chúa Cha là những việc Người làm (x. 14,10-11). Trong Cựu Ước, dân Israel đi tới chỗ biết
Thiên Chúa của họ do họ thấy Ngài che chở kẻ nhỏ bé nhất, yếu đuối nhất, những
ngoại kiều, trẻ mồ côi, và các quả phụ. Nếu Đức Giêsu đang làm những việc tương
tự, điều đó có nghĩa là Thiên Chúa đang ở trong Người và Người đang ở trong
Thiên Chúa.
Không những các môn đệ đầu tiên, mà bất cứ ai tin vào
Người và yêu thương Người, liên kết với Người theo cách này (“giữ lời”), thì
đều sẵn sàng đón Chúa Cha và Chúa Con khi các Đấng đến; các Đấng sẽ cư ngụ nơi
người ấy và sẽ ở lại bền bỉ với người ấy. Người đã liên tục nhắc lại: “Thầy
không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy” (16,32; x. 8,29). Điều này đúng cho
bất cứ ai yêu thương Đức Giêsu: người ấy không phải cô độc, không bị lạc lõng
và bỏ rơi; dù không hữu hình, Đức Giêsu và Chúa Cha vẫn ở bên người ấy.
* Chúa Cha sai phái Đấng Bảo Trợ đến giảng dạy (25-26)
Đức Giêsu
nhắc lại một lần nữa là Thánh Thần sẽ đến (x. 14,16-17); Chúa Cha sẽ ban
Thánh Thần theo lời Đức Giêsu thỉnh cầu. Đức Giêsu để lại cho các môn đệ lời
của Người, sứ điệp của Người. Đây sẽ mãi là những yếu tố đưa các môn đệ đến với
Người. Nhưng các môn đệ sẽ không phải dựa vào sức riêng mà hiểu lời Người: họ
sẽ được Chúa Thánh Thần trợ giúp. Sự hỗ trợ hữu hiệu của Thánh Thần sẽ được
biểu lộ rõ ràng trong việc dạy cho họ hiểu lời của Đức Giêsu. Thánh Thần sẽ
không đưa đến một giáo huấn mới: thật ra toàn thể mạc khải đã được ban
nơi Đức Giêsu. Tất cả hoạt động của Thánh Thần sẽ là quy về những gì Đức Giêsu
đã nói và giải thích cho các môn đệ. Được Thánh Thần dạy dỗ, các ông sẽ có thể
đi theo sát hơn nữa lời của Đức Giêsu và được chuẩn bị đi vào hiệp thông với
Chúa Cha và Chúa Con.
* Đức Giêsu ban bình an và ra đi (27-29)
Đức Giêsu không để các môn đệ phải mồ côi (x. 14,18),
nghĩa là bỏ rơi các ông, mặc cho các ông sợ hãi, không được hỗ trợ nâng đỡ.
Người từ giã và ban sự bình an của Người cho các ông. Người từ giã các môn đệ
nhưng ban một sự bình an, một sự đảm bảo và một sự che chở
chỉ có thể phát xuất từ Người. Sự bình an này không phải chỉ là một lời nói
(một lời chào), cũng không phải là sự bình an mà thế gian ban tặng: một sự bình
an giả trá, một sự bình an được đặt trên sự chuyên chế, bạo động và bất công.
Sự bình an Đức Giêsu ban chính là ơn cứu độ, là “sự thật”, “ánh sáng”, “sự sống”, “niềm vui”, dựa trên việc loan
báo do Người thực hiện, dựa trên sự hiệp thông với Chúa Cha và với Chúa Con và
dựa trên sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Sự hiệp thông ấy đưa lại sự an toàn
và che chở. Nếu Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ai có thể đe dọa chúng ta và đứng
lên chống lại chúng ta?
Khi đi chịu chết, thật ra Đức Giêsu trở về nhà Cha (x.
13,1); như thế Người đã đạt được mục tiêu của hành trình trần thế của Người.
Đối với Người, không có niềm vui nào to lớn hơn là sự hiệp thông trọn vẹn với
Cha. Điều này hẳn cũng phải có giá trị cho các môn đệ Người. Sự thông hiệp với
Cha và với Con, một sự hiệp thông được ban cho họ ngay từ bây giờ, là
nền tảng cho sự bình an của họ. Sự hiệp thông trọn vẹn của Con với Cha, vì là
mục tiêu Đức Giêsu đã đạt, là nền tảng chắc chắn nhất cho niềm vui của họ.
+ Kết luận
Mọi sự tùy
thuộc vào việc nhìn các sự việc một cách đúng đắn. Nhìn từ bên ngoài,
cái chết của Đức Giêsu dường như là tai họa và sự đổ vỡ tan tành thành mây
khói. Nhưng ai tuân giữ lời của Người, thì đã không mất sự an toàn do cái chết
của Người, mà lại còn được củng cố trong niềm tin vào Người và trong niềm vui
vì chiến thắng của Người. Đức Giêsu làm cho chúng ta tất cả những điều này
xuyên qua hoạt động của Thánh Thần: chính Thánh Thần sẽ dẫn dắt chúng ta, dạy
bảo và nhắc chúng ta nhớ lại tất cả những gì Đức Giêsu đã nói.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Sự hiệp thông với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần cất đi mọi mối bận tâm, sợ hãi và lo lắng bất an, nhất là khi ta sống sự
hiệp thông ấy trong đức tin. Bởi vì chỉ Đức Giêsu mới giúp chúng ta đi vào hiệp
thông với Chúa Cha, thì cũng chỉ Người mới có thể ban cho chúng ta sự bình an
này. Người tín hữu phải luôn luôn biết rằng, ngay cả khi họ bị cái chết dằn
vặt, Đức Giêsu và Chúa Cha vẫn ở bên họ, chứ không bao giờ bỏ rơi họ trong tình
cảnh khốn quẫn. Sự hiệp thông với Đức Giêsu và với Chúa Cha không chỉ bắt đầu
khi chúng ta được tiếp đón vào nhà Cha (14,2-3), nhưng là một thực tại
đã có bây giờ và sẽ hoàn tất với cuộc hưởng kiến vinh quang.
2. Ngược với việc tuân giữ những luật lệ chi li cách tỉ
mỉ và máy móc, không quan hệ gì với con tim của người tín hữu, Đức Giêsu đặt
các tương quan của Người với các môn đệ trên nền tảng là các dây liên kết riêng
tư trong tình yêu. Muốn thấy Đức Giêsu, muốn sống nhờ Người và với Người, người
tín hữu phải “giữ các lời Người” (c. 24). Sự sống này, như Đức Giêsu xác định,
lại chính là sự sống của Người và cũng là sự sống mà Người nhận từ Chúa Cha,
nhưng cũng có chung với Chúa Cha.
3. Các Kitô hữu hôm nay cũng phải vui mừng cho chính
mình: sự kiện Đức Giêsu đã đạt tới mục tiêu là đảm bảo cho họ là họ cũng sẽ đạt
tới đó, Người sẽ đón họ vào trong cuộc sống vinh phúc của Người.
4. Cái chết của Đức Giêsu rất có thể có vẻ là chiến thắng
của ông hoàng của thế gian này và của các quyền lực bóng tối, là sự khải hoàn
của các đối thủ của Người. Nhưng Đức Giêsu không hề bị áp đảo bởi một quyền
lực bên ngoài, chống lại ý muốn của Người. Người đã tự ý nhận lấy cái chết của
Người, bởi vì Cha đã định đoạt như thế cho Người. Cái chết của Người là một dấu
chỉ về tình yêu của Người đối với Cha.
5.
Chúa Thánh Thần không thoạt đến thoạt đi khỏi cuộc đời chúng ta
như kiểu một vị khách đột xuất. Ngài không ngừng tìm cách thúc đẩy
chúng ta để luôn có một con tim và ý muốn sẵn sàng đáp lại những gì Đức Giêsu
muốn ta làm cho thế giới này. Khi ta không thể đáp lại bằng sức riêng của mình,
thì Thánh Thần luôn bên cạnh để hướng dẫn và ban cho ta sức sống mới. Đời sống
Kitô hữu thật khó để mà lèo lái trong thế giới hiện đại này. Khi chúng ta trượt
ngã thì có Thánh Thần nâng ta dậy, xóa sạch bùn nhơ và tiếp tục giúp ta kiến
tạo cuộc đời mới – giống như một vị khách tuyệt vời và luôn giúp đỡ (Siciliano).
Lm FX Vũ Phan Long, ofm