ĐỨc Giêsu
HIỂN DUNG
(Luca 9,28b-36 – CN II MC - C)
1.- Ngữ cảnh
Đây
là biến cố cuối cùng trong thời gian Đức Giêsu hoạt động tại Galilê (Lc 3,1–9,50): Người đang ở tại một khúc
quanh quan trọng trong sứ mạng; công việc rao giảng tại Galilê đã kết thúc; Phêrô
mới đây đã tuyên xưng Người là “Đấng Kitô của Thiên Chúa” (9,20) và nhân dịp
đó, Người đã củng cố thêm hiểu biết của các môn đệ bằng cách loan báo cuộc
Thương Khó (9,22). Cũng giống như ở Mc
9,2-8, truyện Hiển Dung của Đức Giêsu trong TM
III (9,28-36) đi theo sát lời Đức Giêsu nói về đời môn đệ và dường như trả
lời một loạt các câu hỏi về chân tính của Đức Giêsu (x. 9,7-9.18-22). Cuộc Hiển
Dung cho các môn đệ được thấy trước vinh quang của Đấng Phục Sinh, vinh quang
Nước Trời. Truyện giới thiệu tư cách thuộc thiên giới của Đức Giêsu đối lại với
hai dung mạo Cựu Ước và thúc bách các Kitô hữu lắng nghe Người như lắng nghe
Con Một của Thiên Chúa và Đấng được Thiên Chúa ưu tuyển.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba đơn vị:
1)
Hoàn cảnh của cuộc Hiển Dung (9,28);
2)
Cuộc Hiển Dung (9,29-35):
a) Lý
do (cc. 29-32),
b)
Cuộc đối thoại (cc. 33-35);
3) Kết thúc cuộc Hiển Dung (9,36).
3.- Vài điểm chú giải
-
dung mạo Người đổi khác (29): Cụm từ này đã thay thế cho động từ
“được biến hình” (metamorphôthê) trong Mc (9,2) và Mt (17,2) để
tránh những truyện về hóa thân, hóa kiếp trong thần thoại ngoại giáo.
- có
hai nhân vật (30): Vì được giới thiệu là “hai nhân vật, hai người đàn ông” (andres dyo), ta có thể nghĩ đến “hai
người đàn ông y phục sáng chói” trong truyện Phục Sinh (Lc 24,4) hoặc “hai người đàn ông mặc áo trắng” trong truyện Thăng
Thiên (Cv 1,10). Như thế, quả thật
Môsê và Êlia là hai chứng nhân của Đức Giêsu, nhưng ở đây, hai vị có mặt trong
tư cách là những nhân vật thuộc thiên giới, nhằm loan báo vinh quang tương lai
của Đức Kitô. Và nếu vậy, quang cảnh này trước hết là một hình ảnh báo
trước cuộc Lên Trời (x. Cv 1,9: đám
mây).
-
Xuất hành (31): Rất có thể tác giả Lc
coi toàn bộ Thương Khó – Phục Sinh – Thăng Thiên là một cuộc Xuất Hành
mới, đi từ Giêrusalem cứng tin (# Ai Cập) mà vào Vinh quang của Thiên Chúa (#
Đất hứa).
- ngủ
mê mệt (32): Dịch sát là “bị đè nặng trong
giấc ngủ” (bebarêmenoi hypnô).
-
vinh quang (32): Tác giả Lc là
tác giả duy nhất sử dụng từ “vinh quang” ở đây. Kiểu ngài nối kết Khổ Nạn với
Vinh quang ở đây rất gần với truyện Ga
12,27-28 (vẫn được coi như tương tự với truyện Hiển Dung trong các TMNL).
- thật là hay (33): Hay cho ai? Chúng ta không rõ.
Dù sao, ta hiểu là Phêrô không hiểu rõ hoàn cảnh, nhưng cảm thấy vui, nên mơ ước
kéo dài tình trạng này.
- đám mây (34): Phải chăng đám mây bao phủ cả
các môn đệ, nên các ông mới sợ (sợ chết?)? Có bao phủ ba nhân vật kia không?
Nhưng bản văn lại nói là “từ đám mây có tiếng phán ra”. Vậy có lẽ các môn đệ ở
ngoài đám mây. Nhưng dù thế nào, đám mây thường đi liền với cuộc thần hiển (x. Xh 16,10; 19,9.16; 24,15-16; Lv 16,2; Ds 11,25) và được coi như nơi ở (shơkinâh trong sách Talmud, có nghĩa là “sự
hiện diện của Thiên Chúa”) của Thiên Chúa. Khi thấy đám mây xuất hiện và
dường như còn bao trùm lấy mình, các môn đệ kinh hãi.
- Người được Ta tuyển chọn (35): Xem các “Bài ca về Người Tôi
Trung” (Is 42,1; 49,7).
- trong những ngày ấy (36): nghĩa là trong thời gian Đức
Giêsu đi hoạt động. Công thức này đối lại những gì được kể sau này, sau khi Đức
Giêsu đã sống lại.
4.-Ý nghĩa của bản văn
Khung cảnh của bản văn này như sau:
Ngay trước bài tường thuật này là các giáo huấn về đời môn đệ (Lc
9,23-27) và ngay sau bài, là truyện Đức Giêsu chữa lành một em bé bị quỷ ám
(9,37-43). So với các Tin Mừng khác, ta thấy tác giả không kèm theo mẩu đối
thoại giữa Đức Giêsu và các môn đệ trong khi các ngài xuống núi (x. Mc
9,9-10; Mt 17,9), cũng không có lời nói về ngôn sứ Êlia (x. Mc
9,11-13; Mt 17,10-13).
Độc giả đã thấy giáo huấn về đời môn
đệ “vác thập giá” và thị kiến về “vinh quang” được nối kết chặt chẽ trong kinh
nghiệm về cuộc Hiển Dung. Không thể hiểu được ý nghĩa của biến cố huyền nhiệm
này nếu không đặt nó vào bên trong hai chiều tư tưởng thần học chủ đạo: sứ mạng
cứu thế của Đức Giêsu, yêu cầu đi theo Người trên con đường thập giá, và ánh
sáng vinh quang của sự phục sinh của Người.
* Hoàn cảnh của cuộc Hiển Dung (28)
Chỉ
tác giả Lc xác định biến cố xảy ra
vào “khoảng tám ngày sau khi (Đức Giêsu) nói những lời ấy” (c. 28), tức là các giáo
huấn về đời môn đệ (cc. 23-27). Cả ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê vừa chứng
kiến Đức Giêsu làm cho con gái ông Gia-ia sống lại (Lc 8,51-56), nay Người đưa các ông đi ra khỏi tình trạng ồn áo
huyên náo của cuộc sống thường ngày và đưa các ông lên núi (không được xác
định), biểu tượng của thế giới Thiên Chúa. Mới trước đó, Người yêu cầu “vác
thập giá mà theo” Người, bây giờ Đức Giêsu quyết định “đem theo” ba môn đệ và
kết hợp các ông vào sứ mạng của Người, để các ông có thể chia sẻ kinh nghiệm
vinh quang nhằm đi tới chỗ hoàn tất trong Ngày Phục Sinh.
Điều đáng ghi nhận: tác giả cho biết
mục tiêu Đức Giêsu nhắm không phải là tỏ mình ra cho các môn đệ, nhưng là “cầu
nguyện”. Việc cầu nguyện được đặc biệt nêu bật trong TM III.
* Cuộc Hiển Dung (29-35)
Đang
khi Người cầu nguyện, thì “dung mạo Người đổi khác, y phục Người trở nên trắng
tinh chói loà” (c. 29): cuộc hiển dung xảy ra như là kết quả của việc cầu
nguyện. Tác giả không dùng động từ metamorphousthai
(= biến hình) có trong Mc và Mt (x. Mc 9,2; Mt 17,2). Theo
một vài nhà chú giải, tác giả Lc muốn
tránh làm cho độc giả hiểu đây giống như những cuộc hóa thân của thần thánh
ngoại giáo; có những tác giả khác lại cho rằng đây là một gợi nhắc đến biến cố
Môsê đã trải qua trên núi Sinai (Xh
24,29-30): trong bản văn này có nói rằng dung mạo Môsê phản ánh vinh quang của
Đức Chúa. Tầm quan trọng được gán cho biến cố huyền nhiệm này đưa độc giả đến
chỗ nghĩ rằng Đức Giêsu đang tự mạc khải ra như là Đấng sống lại và đang ở
trong thế giới siêu việt và vinh quang của Thiên Chúa.
Vậy, vẻ rạng rỡ của dung mạo và nét
trắng tinh chói lòa nơi y phục của Người cho biết Người thông dự vào đời sống
của Thiên Chúa, Người có bản tính Thiên Chúa, và báo trước cuộc Phục Sinh. Các
môn đệ nhận ra rằng dung mạo quen thuộc con người trần gian của Đức Giêsu lâu
nay không diễn tả hết tất cả thực tại của Người; các ông hiểu rằng Người không
bị khóa kín trong những giới hạn của thực tại trần gian. Đàng sau dung mạo phàm
trần của Đức Giêsu, có ẩn giấu thực tại siêu phàm thần thiêng của Người.
Không
những các giới hạn của thực tại trần thế bị vượt quá, các biên cương của thời
gian cũng bị lướt qua. Bên cạnh Đức Giêsu, xuất hiện hai ông Môsê và Êlia, hai
dung mạo nổi bật trong lịch sử dân Israel (cc. 30-31). Môsê nhà giải phóng Dân
tộc, cũng là trung gian đón nhận Luật Sinai. Êlia là vị ngôn sứ đã bảo vệ tôn
giáo độc thần và tái lập giao ước của Thiên Chúa với Dân. Các ngài đại diện cho
mối quan tâm săn sóc của Thiên Chúa và cuộc chiến đấu của Người cho dân tộc
này. Các ngài cũng chia sẻ kinh nghiệm bị từ khước và bị bách hại. Nay hai ngài
đàm đạo với Đức Giêsu về “cuộc xuất hành” Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem
(c. 31). Tác giả Lc coi toàn bộ
Thương Khó–Phục Sinh–Thăng Thiên là một cuộc Xuất Hành mới, đi từ
Giêrusalem cứng tin (# Ai Cập) mà vào Vinh quang (# Đất hứa). Nhưng toàn bộ
cuộc Xuất Hành mới này liên hệ đến lịch sử Israel (đại diện bởi Môsê và Êlia);
Đức Giêsu sẽ đưa lịch sử của những mối quan tâm săn sóc của Thiên Chúa đối với Dân
Người đến chỗ hoàn tất.
Đáng tiếc là các môn đệ nặng nề trong
giấc ngủ (c. 32). Khi Thầy làm phép lạ, hoặc khi đám đông hoan hô Người, các
ông thức, nhưng khi Người bắt đầu nói đến chương trình của Thiên Chúa, việc
hiến dâng mạng sống, phục vụ người nghèo, thì họ từ khước hiểu biết, họ nhắm
mắt lại và ngủ. Sau này, tại núi Ôliu, các ông cũng ngủ (Lc 22,45), bởi vì các ông chờ đợi được vỗ tay hoan hô và tôn vinh,
chứ không hiểu vai trò của thập giá mà Thầy đang đi tới. Tuy nhiên Phêrô còn
tìm ra sức mà lên tiếng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con
xin dựng ba cái lều…” (c. 33). Ông mong muốn kéo dài mãi mãi kinh nghiệm về
vinh quang này, tương quan đặc biệt này giữa thiên quốc và trần gian, một nếm
cảm trước sự viên mãn cánh chung, thiết
lập tức khắc Triều Đại Thiên Chúa trên mặt đất (G. Rossé). Chi tiết “dựng ba
cái lều” vừa có tính lịch sử (Nhà Tạm của Hòm Bia Chứng Ước trong cuộc xuất
hành qua sa mạc) vừa mang tính phụng vụ (Lễ Lều: Lv 23,42; Dcr 14,16-19).
Thật ra, ông không biết mình đang nói gì” (c. 33). Ông chỉ dừng lại với một
khoảnh khắc sống ở bình diện cá nhân chứ không nghĩ đến được số phận cánh chung
của toàn thể Dân Giao ước. Ông không hiểu giá trị của cuộc Hiển Dung trong
chương trình cứu độ phổ quát.
Quang cảnh hiển vinh đột nhiên bị một
đám mây che phủ. Khi đi vào trong hoàn cảnh mới này, các môn đệ hoảng sợ (c.
34), điều này cho hiểu là con người mỏng dòn đang tiếp cận với mầu nhiệm của sự
thánh thiêng. Đám mây là sự chấm dứt kinh nghiệm về vinh quang, vừa là nơi phát
ra tiếng nói thiên quốc. Đây là vai trò biểu tượng của đám mây (x. Xh 19,9.16; 24,15-18; 40,34t; 2 Mcb 2,8; Cv 1,9). Tiếng nói bảo: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển
chọn, hãy vâng nghe lời Người” (c. 35). Khẳng định được liên kết với mạc khải
trong Phép rửa (Lc 3,22), nhưng khác
biệt ở chỗ tại Phép rửa, tiếng nói ngỏ lời trực tiếp với Người Con, còn ở đây,
mạc khải được gửi đến các môn đệ, với lệnh vâng nghe lời Người (autou akouete: lưu ý vị trí nhấn mạnh
của đại từ. Diễn ra như sau: “Chính Người, anh em hãy nghe lời!”). Mạc khải từ
trời đã tổng hợp hai trích dẫn Tv
2,7, nhằm nói về tư cách Con Thiên Chúa của Đức Kitô, và Is 42,1 nhắc đến sứ mạng ngôn sứ của Người Tôi Tớ Đức Chúa, phải
chịu đau khổ khi loan báo Lời Chúa. Đức Giêsu vừa có tư cách vừa mang sứ mạng
được hai bản văn này giới thiệu. Mạc khải kết thúc với lời kêu gọi rút từ Đnl 18,15 nhắc nghe lời ngôn sứ Môsê (x.
Cv 7,37). Từ nay, không còn phải là
Môsê hoặc các ngôn sứ mà các môn đệ phải vâng lời, nhưng là chính Con Thiên
Chúa, Đấng có uy quyền vượt xa uy quyền của mọi người từ xưa cho đến tận
thế. Cách nào đó lời này phi bác ý muốn
của Phêrô là thiết lập ngay từ bây giờ Nước Thiên Chúa trên mặt đất. Cần phải
hiểu là sứ mạng Mêsia của Đức Giêsu vượt quá những nỗi niềm chờ mong Đấng Mêsia
của dân Israel và những nguyện vọng trần tục của các môn đệ.
Thế rồi bản văn Lc kết thúc đơn giản, so với Mc
(Mc 9,8). Tiếng nói đã ngưng, các
nhân vật Môsê và Êlia không còn ở đó nữa, chỉ còn lại Đức Giêsu và các môn đệ
(c. 36). Tác giả không nhắc đến lệnh im lặng Đức Giêsu truyền cho các môn đệ
(x. Mc 9,9; Mt 17,9), nhưng ghi nhận rằng các ông “nín thinh”. Đây là hậu quả
của một kinh nghiệm đã ghi dấu sâu sắc trong lòng ba chứng nhân, họ nội tâm hóa
biến cố này, họ không để lộ ra bên ngoài bao lâu Đức Giêsu còn ở với họ (“Trong
những ngày ấy”).
* Kết thúc cuộc Hiển Dung (36)
Sau đó, các môn đệ giữ thinh lặng,
không tiết lộ gì về những chuyện đã xảy ra trên núi. Ghi nhận sự thinh lặng này
đúng ra là một câu tóm truyện Mc (Mc 9,9-13). Các ông cứ giữ thinh lặng
như thế cho đến khi Đức Giêsu đã sống lại.
+ Kết luận
Biến cố Hiển Dung là trạm trung chuyển
giữa ánh sáng loé lên quá mau của Phép Rửa và ánh sáng chói lọi của sáng ngày
Phục Sinh. Trong cuộc hành trình lên Giêrusalem, Đức Giêsu thấy mình được tiếng
Chúa Cha chuẩn nhận trong sứ mạng Mêsia chịu đau khổ: Người sẽ thực hiện chương
trình cứu độ qua thân phận bị sỉ nhục và thất bại. Nhưng qua lời giới thiệu của
Chúa Cha, chúng ta biết Đức Giêsu là Lời mà ta phải lắng nghe, là vị hướng đạo
chắc chắn trong cuộc Xuất Hành cuối cùng đưa đến cuộc sống viên mãn. Điều này
được làm rõ ở cuối biến cố, khi tác giả nói là “chỉ còn thấy một mình Đức
Giêsu: Mục tiêu của Cựu Ước là dẫn
chúng ta đến với Đức Giêsu, Đấng hoàn toàn vâng phục chương trình cứu độ của
Chúa Cha. Sau Phục Sinh, biến cố Hiển Dung sẽ có một vị trí quan trọng trong
truyền thống Hội Thánh, vì được coi là một trong những khoảnh khắc có ý nghĩa
nhất trong kinh nghiệm Kitô hữu (x. 2 Pr
1,16-28).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Tác giả TM III cho biết vì sao Đức Giêsu lên núi: để “cầu nguyện” (c. 28).
Người dành nhiều thì giờ mà cầu nguyện. Chỉ nhờ thế, Người mới dần dà hiểu được
những gì sẽ xảy ra, đâu là nơi Cha Người đang dẫn Người đến. Giống như ba môn
đệ ngày hôm ấy, chỉ khi để cho Đức Giêsu dẫn đưa vào nơi thanh vắng và đến gần
Thiên Chúa, chúng ta mới ở trong hoàn cảnh thích hợp, thuận lợi, mà hiểu rõ hơn
mầu nhiệm bản thân Đức Giêsu và chương trình của Thiên Chúa. Nhờ có Người làm
trung gian, chúng ta biết mọi điều mà Thiên Chúa có ý làm cho chúng ta và chúng
ta biết cách xử sự với Thiên Chúa.
2. Trong khi cầu nguyện, dung mạo của
Đức Giêsu “đổi khác” (c. 29). Tác giả không nói là “biến hình” như các Tin Mừng
khác. Điều xảy ra trong truyện này không nhắm trước tiên cho Đức Giêsu, nhưng
là cho ba môn đệ. Không phải Người là Đấng phải thực hiện một kinh
nghiệm hoặc phải biết một điều gì mới, nhưng chính các ông mới phải tiến
tới trong việc hiểu biết Người và tin tưởng vào Người. Ánh sáng trên dung nhan
Đức Giêsu cho chúng ta hiểu, trong khi cầu nguyện, Người đã hiểu chương trình
cứu độ của Cha Người và đã chấp nhận chương trình đó. Hy sinh của Người sẽ
không phải là một thất bại, mà là một bước tiến tới sự phục sinh và vinh quang.
3. Sự kiện Đức Giêsu xuất hiện giữa
Môsê và Êlia và hai ông đàm đạo với Người cho các môn đệ một bằng chứng
nữa để có thể nhận ra Đức Giêsu là ai: Người thuộc về thế giới Thiên Chúa.
Nhưng Người cũng thuộc về lịch sử dân Chúa, một lịch sử được Thiên Chúa
hướng dẫn. Người phải đưa sứ mạng của Môsê và Êlia đến chỗ hoàn tất; Người cũng
đáng được trân trọng và nhận biết như hai người tôi tớ vĩ đại này. Đức Giêsu
không xuất hiện bất ngờ như một sao băng không hề có liên hệ gì với quá
khứ, nhưng Người tháp vào trong lịch sử dài gồm những săn sóc ân cần của Thiên
Chúa đối với dân Ngài, và đưa lịch sử này đến chỗ hoàn tất.
4. Quan hệ của Đức Giêsu với Thiên
Chúa không phải là một vấn đề lý thuyết, không quan trọng gì bao nhiêu
đối với đức tin và lối sống Kitô hữu. Phải nói là chính trong tương quan này mà
bản chất của tương quan của Người đối với loài người chúng ta cũng được làm
sáng tỏ, cả ý nghĩa của Người đối với chúng ta, những chờ đợi mà chúng ta có
thể có nơi Người, những bổn phận phát xuất từ tương quan này đối với chúng ta.
5.
Cho tới nay, Israel đã nghe lời Môsê và Êlia, nay họ phải nghe lời Đức Giêsu.
Tất cả Sách Thánh của Israel đều dẫn
tới Đức Giêsu. Bằng bản thân, bằng Lời Chúaạt động và bằng lời nói của Người,
Đức Giêsu đưa đến cho dân chúng sứ điệp chung kết của Thiên Chúa. Cựu Ước không có ý nghĩa nếu không có
Đức Giêsu, còn chính Người, nếu không có Cựu
Ước, thì chỉ là một mầu nhiệm đối với chúng ta. Vào ngày Phục Sinh, để cho
các môn đệ có thể hiểu ý nghĩa của cái chết và sự sống lại của Người, Người sẽ
phải giải thích Cựu Ước cho họ (x. Lời Chúa 24,17).
Lm FX Vũ Phan Long, OFM