Đức Giêsu và NGƯỜI PHỤ NỮ NGOẠI
TÌNH
(Gioan 8,1-11 – CN V MC - C)
1.- Ngữ
cảnh
Đoạn văn
này nằm trong Phần I của TM IV (“Sách
các Dấu lạ của Đức Giêsu”, tức ch. 2–12), nhưng được coi như một bản văn không
thuộc về bản gốc TM IV. Lý do: bản
văn này không có trong những thủ bản Hy Lạp quan trọng phát xuất từ Đông phương
(chẳng hạn bản Papyrus Bodmer II = P66, năm 200); các tác giả Hy Lạp
viết về TM Ga thuộc thiên niên kỷ I
không hề bình luận bản văn này; nó chỉ xuất hiện vào khoảng năm 900 trong bản
văn Hy Lạp chuẩn. Ngoài ra, còn có những tiêu chuẩn văn chương: bản văn có từ
vựng và văn phong của các TMNL, đặc
biệt của TM Lc; nó có vẻ không ở đúng
chỗ, dù là tại chỗ hiện nay (giữa Ga
7,52 và Ga 8,12), hay ở trong ngữ
cảnh tổng quát là TM IV.
Giai thoại
này được đặt ở đây có lẽ để minh họa lời khẳng định của Đức Giêsu ở Ga 8,15: “Phần tôi, tôi không xét đoán
ai cả”. Chúng ta thấy như thế trong một số thủ bản chữ hoa Hy Lạp, nhất là bản
D (Codex Bèze), trong các thủ bản Latinh cổ và tốt, và dĩ nhiên trong bản Phổ
thông.
Bản văn này chứa một truyền thống Tin Mừng về cuộc sống công khai của Đức Giêsu: cách thức xử sự của
các người tố cáo được các đoạn khác của TM
làm chứng; thái độ quen thuộc của Đức Giêsu khi đối diện với Luật Môsê, và sự
tha thứ Người ban cho những kẻ tội lỗi. Do đó, ta không thể hoài nghi về sử
tính của bản văn. Đàng khác, từ vựng cũng như xu hướng thần học khiến ta nghĩ
rằng đây là công trình của tác giả Luca.
Chính vì thế, có một loạt thủ bản chép đoạn văn này vào sau Lc 21,38.
Người ta cũng đoán lý do khiến bản văn này không thuộc về
các TM ngay từ đầu: rất có thể lý do
mạnh nhất, đó là khó mà dung hòa sự tha thứ quá trọn vẹn Đức Giêsu ban cho
người phụ nữ với việc đền tội nghiêm khắc mà Hội Thánh sơ khai quy định cho tội
ngoại tình.
2.- Bố
cục
Bản văn có
thể chia thành hai phần:
1) Khung
cảnh (8,1-2);
2) Vụ
“Người phụ nữ ngoại tình” (8,3-11):
a) Các kinh sư/Pharisêu – Người phụ nữ “đứng ở giữa” –
[Đức Giêsu] (c. 3),
b) Các kinh sư/Pharisêu – Đức Giêsu – [Người phụ
nữ] (cc. 4-6),
c) Đức Giêsu và các kinh sư/Pharisêu: câu nói
tạo khúc quanh (cc. 7-8),
b’) Đức Giêsu – Các kinh sư/Pharisêu – [Người phụ
nữ] (c. 9a),
a’) Đức Giêsu – Người phụ nữ “đứng ở giữa” – [Các kinh
sư/Pharisêu] (cc. 9b-11).
3.- Vài
điểm chú giải
- vừa
tảng sáng (2): Ngoại trừ chỗ này trong TM IV, từ orthros, “bình minh” (orthrou,
“lúc bình minh, lúc tảng sáng”) chỉ xuất hiện trong TM Lc và Cv thôi (x. Lc 24,1; Cv 5,21). Riêng Lc 21,38
dùng động từ orthrizô, “dậy sớm”.
- các
kinh sư và người Pharisêu (2): Đây
là một công thức quen thuộc của các TMNL,
còn TM Ga thì chuộng kiểu nói “các
thượng tế và người Pharisêu” (x. 7,32.45; 11,45.57); ngoài đoạn văn này, TM Ga không bao giờ nói đến các kinh sư.
- bị bắt
gặp đang ngoại tình (3): Câu
4 sẽ xác định rõ hơn: “bị bắt quả tang đang ngoại tình”. Theo Đnl 19,15, phải có ít ra hai người làm
chứng rằng đã thấy sự việc, không kể người chồng. Không chỗ nào nói đến anh
tình nhân, có lẽ anh này đã trốn mất. Có thể so sánh truyện này với truyện bà
Susanna (Đn 13,36-40 Vg).
- Thưa
Thầy (4): Danh xưng didaskalos ở hô-cách[1]
này rất quen thuộc với truyền thống Nhất
Lãm; còn trong Ga, tác giả thường
dùng từ Rabbi để thưa với Đức Giêsu (Ga 1,38).
- trong
sách Luật, ông Môsê truyền (5): Các
kinh sư và người Pharisêu đang quy chiếu về Lv
20,10 và Đnl 22,22-24 để lý luận.
- Họ nói
thế nhằm thử Người (6): Câu này hầu như
cũng là câu Ga 6,6 trong tiếng Hy
Lạp.
- để có
cớ tố cáo Người (6): Câu này hầu như
cũng là câu Lc 6,7 trong tiếng Hy
Lạp.
- viết
trên đất (6): Có nhiều gợi ý về điểm này.
1) Thánh Giêrônimô cho rằng Đức Giêsu đã viết tội của
những người tố cáo người phụ nữ. Ngài nghĩ như thế vì dựa trên Gr 17,13;
2) Theo J.D.M. Derrett, người chồng đã lập mưu với các
người chứng để bắt quả tang vợ phạm tội; do đó dựa theo c. 6, Đức Giêsu đã viết
lên đất câu Xh 23,1b: “(để làm chứng
gian)”, và dựa theo c. 8, Người đã viết Xh
23,7a. Với lại sách Đn đã quy chiếu
về câu Xh này trong truyện bà Susanna
(Đn 13,53);
3) T.W. Manson lưu ý rằng trong cách thực hành của Luật
Rôma, trước tiên vị thẩm phán viết bản án ra, rồi mới đọc to lên. Như thế, hẳn
là c. 6 cho thấy Đức Giêsu đã viết bản án ra, rồi công bố ở c. 7; rồi ở c. 8,
Người lại viết những gì sẽ công bố ở c. 11.
Cách giải thích hợp lý nhất, đó là Đức Giêsu chỉ vạch các
đường nét trên mặt đất trong khi Người suy nghĩ, hoặc muốn tỏ ra không nao núng
hay Người đang kềm hãm các cảm giác chán ngán về sự hăng hái đầy gian ác của
những người tố cáo. E. Power ghi lại nhiều trường hợp từ nền văn chương Ả Rập
cho thấy thói quen Sêmít vẽ trên đất khi không muốn can thiệp vào vụ việc nào
đó. Dù sao, chúng ta có cảm tưởng là nếu là chuyện quan trọng hơn, thì nội dung
của những nét vẽ đó đã được kể lại.
- Ai
trong các ông sạch tội, … ném trước … (7): Đức Giêsu cũng trích dẫn Đnl 13,9-10 và ch. 17. Đnl
17,7 nhìn nhận rằng người làm chứng chống lại bị cáo có một trách nhiệm đặc
biệt đối với cái chết của kẻ ấy.
- họ đâu cả rồi?
Không ai lên án chị sao? (10): Đức Giêsu hỏi vì ngạc nhiên hay là có ý châm
biếm? Có lẽ phải nói lời này vừa có ý minh giải hoàn cảnh vừa tạo sự yên tâm
cho người phụ nữ, và như thế tương đương với câu: “Như vậy, họ đã bỏ rơi vụ này
rồi”. Vì những người chứng và những người tố cáo đã bỏ đi, vụ việc đã hỏng rồi.
Động từ “lên án” ở đây là động từ chuyên môn katakrinein; ở những chỗ khác, khi nói về sự phê phán, phán đoán,
tác giả Ga luôn luôn sử dụng động từ
trung lập hơn, đó là krinein (Ga 3,17.18; 5,22.30; 8,15.16…).
4.- Ý
nghĩa của bản văn
Cách thức Đức Giêsu đối xử với những người tội lỗi lâu
nay chắc chắn không được các đối thủ của Người chấp nhận. Người đã ăn uống đồng
bàn với những người tội lỗi, đã loan báo cho họ biết Thiên Chúa từ bi thương
xót, sẵn sàng tha thứ cho họ. Trong khi đó, các đối thủ của Người tỏ một thái
độ khinh bỉ, giữ khoảng cách với những người tội lỗi, không muốn bị họ làm cho
ra “nhơ uế”. Họ phản đối cách thức xử sự của Đức Giêsu và muốn chứng tỏ cho
Người thấy rằng chỉ lối sống của họ mới tương ứng với Lề Luật, nghĩa là với ý
muốn của Thiên Chúa đã được mạc khải.
Hôm nay, lại có một sự cố xảy ra để cho thấy những điểm
này.
* Khung
cảnh (1-2)
Đức Giêsu
đang giảng dạy tại Đền Thờ trong tuần lễ cuối cùng của đời Người. Nhiều chi
tiết cho biết như thế: Núi Ôliu, Đền Thờ, giảng dạy có uy quyền chung quanh Đền
Thờ. Dân chúng vây quanh, lắng nghe Người. Tác giả nói “toàn dân” để cho hiểu
là lời rao giảng của Đức Giêsu gây một ảnh hưởng lớn trên người Do Thái.
* Vụ
“người phụ nữ ngoại tình” (3-11)
Lần này, các kẻ thù của Người tưởng là
cuối cùng họ đã có thể đưa Người vào bẫy để tiêu diệt Người. Họ không tranh
luận với Người nữa, mà họ điệu đến cho Người một phụ nữ bị bắt quả tang phạm
tội ngoại tình. Vụ việc đã quá rõ: bà này có tội. Để xác định tội trạng, thì đã
có những người có uy tín nhất trong xã hội, những người biết giải thích Luật. Ở
đây chúng ta thấy có các kinh sư và người Pharisêu: các kinh sư là những chuyên
viên về Luật; còn các Pharisêu là những người ra sức bảo vệ việc áp dụng Luật
theo mặt chữ. Họ trích Luật liên hệ đến trường hợp này. Lề Luật tuyên bố minh
nhiên: “Khi người đàn ông nào ngoại tình với đàn bà có chồng, ngoại tình với vợ
người đồng loại, thì cả đàn ông ngoại tình lẫn đàn bà ngoại tình phải bị xử tử”
(Lv 20,10; x. thêm Đnl 13,7-10; 17,2tt). Trường hợp ở đây
thì quá rõ, vì đây là ca bắt quả tang.
Các
đối thủ của Đức Giêsu tận dụng tình thế này để gây khó khăn cho Người. Họ đưa
người đàn bà ngoại tình đến và xin Người cho ý kiến: “Trong sách Luật, ông Môsê
truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” Đức
Giêsu còn có thể làm gì nếu không phải là đồng thuận đi theo cách thực hành của
các đối thủ, tức là yêu cầu ném đá người đàn bà tức khắc? Hoặc là Người ưng
theo cách thực hành của họ, hoặc là Người chứng tỏ Người khinh thường Lề Luật.
Tất cả mọi chuyện này xảy ra nơi thanh thiên bạch nhật, trước sự chứng kiến của
dân chúng đang nghe Đức Giêsu. Nếu Người đồng thuận với các xử sự của các đối
thủ, Người cũng đồng thuận với lập trường của họ đối với những người tội lỗi,
Người sẽ bị buộc phải phủ nhận cách xử sự của Người và thế là Người sẽ bị lật
mặt nạ ra như là vị thầy giả hiệu. Ngược lại, nếu Người không chấp nhận lối xử
sự của họ, Người sẽ phủ nhận một khoản luật rất rõ ràng và cũng sẽ bị toàn dân
coi là kẻ vị phạm Lề Luật. Đức Giêsu sẽ ứng xử thế nào trong hoàn cảnh có vẻ
không ngõ thoát này?
Hết sức bình thản, Đức Giêsu cúi xuống
viết, hoặc vẽ những dấu trên mặt đất. Người chẳng hề liếc nhìn họ hay trả lời
họ gì cả. Dường như Người hoàn toàn chỉ lo làm công việc là dùng ngón tay vẽ
trên đất. Mọi người cứ chờ một lời nói của Người: các đối thủ thì rất tự tin,
người phụ nữ thì cam chịu, dân chúng thì căng thẳng. Người vẽ như thế để làm
gì? Người muốn làm cho các đối thủ phải mệt mỏi hoặc bực bội chăng? Đây là một
cử chỉ biểu tượng chăng? Ở Gr 17,13,
chúng ta đọc được: “Ai tráo trở với Người sẽ có tên viết mặt đất, vì chúng đã
bỏ Yavê, mạch nước hằng sống” (Bd NTT).
Phải chăng Đức Giêsu muốn nhắc cho họ nhớ rằng họ đã thất trung với Thiên Chúa,
nên tên họ đáng bị viết trên mặt đất để rồi xóa đi? Dù sao, họ cũng nôn nóng,
thúc bách Người cho câu trả lời.
Từ
đầu đến giờ Đức Giêsu chưa nói lời nào. Đến đây câu chuyện chuyển sang hướng
khác, do lời đầu tiên Người nói với các kinh sư và người Pharisêu. Bấy giờ Đức
Giêsu mới ngẩng lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá
mà ném trước đi” (8,7). Họ đã chỉ nhìn đến Lề Luật và tội lỗi của người đàn bà;
họ tự tin, họ ngạo nghễ dương dương tự đắc. Ngược lại, Đức Giêsu lại nhắc họ
nhớ đến tội lỗi của họ: họ không thể đề mình ra như những kẻ vô phương trách cứ
và không có tội; chính họ cũng cần chạy đến xin Thiên Chúa kiên nhẫn với họ và
thương xót họ. Làm sao mà họ có thể vội vã yêu cầu xử tử người đàn bà này như
thế, mà không hề nghĩ lại? Họ đã chỉ muốn xử người phụ nữ chỉ như một “ca” đơn
thuần, cách lạnh lùng, y như một bài toán thôi. Đức Giêsu không trả lời trực
tiếp cho câu hỏi của họ; trái lại, Người kéo họ chú ý đến một sự kiện họ đã
quên mất, đó là tình trạng thật của họ trước mắt Thiên Chúa: “Ai trong các ông
sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (c. 7). Đức Giêsu bắt họ phải đưa
bản thân ra mà xét đoán. Và Người cho họ có thì giờ: Người lại cúi xuống, và
viết nữa. Thế là xảy ra một kết quả: các đối thủ của Đức Giêsu đủ lương thiện
để chấp nhận lời Đức Giêsu trong lòng. Không một ai dám khẳng định là mình
không có tội; không một ai dám cầm đá mà ném trước cả. Tất cả đã bỏ đi.
Khi
Đức Giêsu ngẩng lên lần nữa, thì chỉ còn lại người phụ nữ đứng đó. Cho tới đây,
Người chỉ quan tâm đến các kẻ tố cáo người phụ nữ; bây giờ Người ngỏ lời với
bà. Hai câu hỏi của Người đã làm sáng tỏ hoàn cảnh mới này: “Này chị, họ đâu cả
rồi? Không ai lên án chị sao?” (c. 10). Tất cả mọi kẻ tố cáo đã bỏ đi, không ai
kết án bà phải chịu ném đá. Đến đây Đức Giêsu mới lấy lập trường: chính Người
cũng không kết án bà phải chịu ném đá, nhưng Người khuyến cáo: “Chị cứ về đi,
và từ nay đừng phạm tội nữa” (c. 11). Đức Giêsu không hề chuẩn nhận cho lối
sống của người phụ nữ này hoặc giảm thiểu mức độ của lối sống đó. Những gì bà
đã làm là tội lỗi, là những điều đi ngược lại thánh ý Thiên Chúa. Đức Giêsu
mạnh mẽ khuyến khích bà tránh đi lối sống đó. Người tha thứ cho bà và chỉ cho
bà thấy trách nhiệm mới của bà.
+ Kết
luận
Một giai
thoại thật tuyệt vời để diễn tả sâu sắc chương trình và cách thức Thiên Chúa
cứu độ loài người. Cả những kẻ tố cáo cũng như người phụ nữ bị tố cáo đều trải
nghiệm nơi Đức Giêsu lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa. Những người tố cáo
thì hiểu rằng chính họ cũng cần đến lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa, nên
họ không được cư xử cách tự phụ và thiếu lòng từ bi với người thân cận. Người
phụ nữ đã được Đức Giêsu cứu thoát khi bà rơi vào hoàn cảnh nguy hiểm và qua
Đức Giêsu, đã trải nghiệm được ơn tha thứ từ bi của Thiên Chúa. Hẳn là những
người chứng kiến sự cố hôm ấy có thêm một lý chứng để xác tín về giáo lý cứu độ
của Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Qua vụ việc này, chúng ta thấy rằng các kinh sư và
người Pharisêu thiếu lòng từ bi thương xót: họ nằng nặc tố cáo người phụ nữ; họ
nôn nóng đưa Đức Giêsu vào bẫy. Khi mục đích là tiêu diệt kẻ khác, thì mọi sự
việc, kể cả con người, đều có thể trở thành phương tiện cho người ta thực hiện
ý đồ gian ác. Luật lệ có thể trở thành phương thế để gây áp lực; con người có
thể trở thành cái bẫy để ám hại kẻ khác. Các kinh sư và người Pharisêu coi
người phụ nữ ngoại tình như một “ca”
đơn thuần, cách lạnh lùng, y như thể là một
bài toán phải tìm ra đáp án. Đức Giêsu mời gọi chúng ta: khi hành động, cần
phải xem ý hướng chúng ta thế nào. Ở đây, chúng ta gặp lại các giáo huấn của
Đức Giêsu trong Bài Giảng trên núi (Mt
7,1-5).
2. Bài Tin Mừng
này cũng cho thấy rằng Đức Giêsu đã đưa mạc khải về lòng từ bi thương xót của
Thiên Chúa trong Cựu Ước đến chỗ hoàn
tất. Là Con Thiên Chúa, Đức Giêsu đã đến để làm chứng về tình thương này; là
Đấng Cứu Thế, Người đã đến để cứu những gì đã mất; là thầy thuốc, Người đã đến
để chữa các bệnh nhân. Nếu chúng ta có được sự thẳng thắn để nhìn nhận rằng
chúng ta cũng là những kẻ bị mất, bị đau ốm, chúng ta sẽ biết mở lòng ra đón
tiếp Người.
3. Là những con người cũng mắc vô số thiếu sót và lầm
lỗi, chúng ta cũng cần chạy đến với lòng kiên nhẫn và từ bi thương xót của
Thiên Chúa. Thế thì vì sao chúng ta lại có thể vội vàng và không hề áy náy xin
kết án kẻ khác? Chúng ta có chia sẻ thao thức của Đức Giêsu là cứu chữa, hay
chúng ta có một niềm vui thiếu lành
mạnh trong lòng khi kết án kẻ khác, vì lúc đó chúng ta có cảm tưởng mình không
có tội (x. 1 Cr 13,6)? Chúng ta khó
chịu với các kinh sư vì họ định ném đá người phụ nữ, nhưng chúng ta lại không
giống họ sao? Chúng ta lại không nói với người ta những điều y như ném đá vào
họ đó sao? Chúng ta cần ý thức rằng ơn gọi của chúng ta vừa là ra đi đưa lại ơn
cứu chữa như Đức Giêsu đã làm xưa kia, vừa là làm chứng về ơn cứu chữa mà chính
chúng ta liên tục đón nhận.
4. Đã có những lần chúng ta được Đức Giêsu tha thứ. Điều
đó không có nghĩa là Người chuẩn nhận cho cách sống chúng ta vẫn theo lâu nay.
Ơn tha thứ cũng kèm theo một khuyến
khích mãnh liệt, thậm chí một đòi hỏi, hãy thay đổi đời sống. Nếu hôm nay,
chúng ta vẫn còn thấy nơi mình một xu hướng mãnh liệt kết án người khác, thì
cách chữa trị xu hướng bệnh tất đó hay nhất là xem chúng ta đã đi xưng tội bao
nhiêu lần, đã bao nhiêu lần nhận được ơn tha thứ, và rồi đã sống theo lời
khuyến cáo của Đức Giêsu đến đâu: “Hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Tại
sao lại có khá nhiều Kitô hữu có vẻ thích thú khi tìm ra và công khai hóa các
lỗi lầm của người khác?
5. Tội là điều nghiêm trọng, vì nó làm cho chúng ta không
hạnh phúc và phá hỏng cuộc đời chúng ta. Đức Giêsu không bảo người phụ nữ: “Chị
cứ đi bình an, chị có lý khi phản bội chồng chị, cứ tiếp tục đi!”, nhưng dường
như muốn bảo: “Chị hãy ngưng gây hại cho chính chị, đừng phá hỏng đời sống chị
nữa chỉ vì một ít khoảnh khắc lạc thú”. Không ai ghét tội cho bằng Đức Giêsu,
bởi vì không ai yêu thương chúng ta cho bằng Đức Giêsu. Thế nhưng Người không
kết án những kẻ phạm lỗi, cũng không góp thêm phần tàn phá vào những gì kẻ tội
lỗi đã làm nơi chính họ. Người bảo: “Từ nay đừng phạm tội nữa!”
6. Sứ
mạng của Đức Giêsu là cứu chữa qua lòng nhân từ và tha thứ. Nhờ Phép rửa, tất cả chúng ta được trở nên thọ tạo mới và chia sẻ bản tính của Người. Khi những người khác vội vã kết án thì Đức Giêsu tuyên bố, im lặng và cho họ cơ hội để rút lui. Chẳng có ai ở lại với người phụ nữ ngoại trừ Đức Giêsu, và câu chuyện nhắc nhở chúng ta rằng bản tính của Người không phải là kết án, nhưng là để giải thoát. Đức Giêsu đã nghiêm túc nhìn nhận người phụ nữ kia. Chị không phải là đối tượng cho việc tranh luận về vấn đề đạo đức với các Kinh sư và những người Pharisêu. Thay vào đó, Đức Giêsu xem chị như một con người có trách nhiệm, bất luận quá khứ của chị ra sao, Người đã giải thoát và ban cho chị ta một tương lai mới mẻ. Chúng ta lên án tội lỗi, nhưng trong khuôn mặt của tội nhân, chúng ta nên động lòng trắc ẩn như Đức Giêsu đã làm (Siciliano).
Lm FX Vũ Phan Long, ofm