Các phỤ nỮ
tẠi mỘ ĐỨc Giêsu
(Luca 24,1-12 – Canh thức Vượt
Qua - C)
1.- Ngữ cảnh
Chúng
ta cần phải đọc bản văn Lc 24,1-12
trong toàn bộ phân đoạn 23,55–24,12 vì đây là một bài tường thuật liên
tục.
Sau khi Đức Giêsu được mai táng (Lc 23,50-54), đã đến giờ của các phụ nữ
Galilê. Tác giả đã nói đến họ trước đây (8,2t; 23,49), nhưng chỉ ở Lc 23,55–24,10, chứ không ở bất cứ bản
văn nào khác, sự quan tâm mới được tập trung vào các bà. Các bà là những người
duy nhất tỏ ra năng động. Tình yêu của các bà đối với Đức Giêsu vẫn còn sống
động. Các bà làm những gì có thể làm (x. Mc
14,8), tức khắc các bà bố trí một việc nghĩa (tốt) cho Đức Giêsu (x. Mc 14,6) và tìm cách thực hiện càng
nhanh càng tốt. Đến mộ, thấy tình trạng lạ lùng, các bà còn đang phân vân thì
hai thiên sứ đã thông tin: sứ điệp không nói đến các môn đệ mà chỉ nói với các
bà thôi. Các bà về cộng đoàn như là những sứ giả đầu tiên của cuộc Phục Sinh
của Đức Giêsu.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia
thành bốn phần:
1) Các phụ nữ đi ra mộ Đức Giêsu (24,1-3);
2) Hai người đàn ông thông tin cho các
bà (24,4-8);
3) Các phụ nữ đưa tin cho Nhóm Mười
Một (24,9-10a);
4) Nhóm Mười Một phản ứng trước các
lời của các bà (24,10b-12).
3.- Vài điểm chú giải
- Họ
còn đang phân vân (4): Động từ aporein (x. Mc 6,20) và aporeisthai (x. Lc 24,4; Ga 13,22; Cv 25,20) có nghĩa là “bị lúng túng, ở
trong tình trạng lưỡng lự, khó khăn; không biết phải tính sao” (poros,
“con đường”; aporos, “một người không có đường đi”).
- Các
bà sợ hãi (5): Emphobos, “sợ hãi”: x. Lc 24,37; Cv 10,4; 24,25.
Trong công thức emphobos genomenos, nỗi sợ hãi luôn luôn là hậu
quả của một kinh nghiệm đi trước.
- cúi
gầm xuống đất (5): Công thức klinein to prosôpon này không hề có trong
bất cứ đoạn nào của Tân Ước, thậm chí
trong Bản LXX. Có công thức klinein tên kephalên, “tựa đầu; nghiêng đầu”
trong Tân Ước (Mt 8,20; Lc 9,58; Ga 19,30) và klinein to ous,
“nghiêng tai, lắng tai” ở trong Bản LXX
thường xuyên (chẳng hạn Tv 30,2; Hc 4,8). Công thức piptein epi prosôpon,
“ngã sấp mặt xuống đất” có trong Bản LXX
và Tân Ước (x. Mt 17,6; 26,39; Lc 5,12;
17,16). Đây là một cử chỉ dữ dội
nên dường như không tương đương với klinein to prosôpon. Các bà chỉ
“nghiêng mặt về phía mặt đất” (và không dám nhìn lên) vì sợ hãi hoang mang. Có
thể so sánh phản ứng này với Mc
16,5b.
-
Người Sống ở giữa kẻ chết?Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy
(5-6): Hai câu này theo cách chuyển hoán vừa tóm vừa giải thích hai yếu tố của
câu hỏi các thiên sứ đặt ra:
a =
Người Sống
b = kẻ chết
b’ =
không ở đây
a =
đã trỗi dậy
- các
bà kể cho Nhóm Mười Một (9): Động từ apangellein, “đưa
tin, làm cho biết, kể lại” (Mt 8 lần;
Mc 5 lần; Lc 11 lần; Ga 1 lần; Cv 16 lần) là hoạt động của người đã
chứng kiến một biến cố và này cung cấp thông tin; Mt 28,8.10 và Lc 14,9 áp
dụng cho các phụ nữ. Các bà thông tri “tất cả những sự việc ấy”, tức là tất cả
những gì các bà đã chứng kiến ở 24,2-8, tất cả kinh nghiệm họ đã có khi ở tại
mộ Đức Giêsu.
- Mấy
bà nói đây là bà Maria Mácđala, (…). Các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng
nói (10): Câu này có thể
hiểu hai cách: a) Trong trong hợp thứ nhất, toàn câu xác định các bà đã đưa tin
ở Lc 24,9 cho Nhóm Mười Một là ai:
“Là bà Maria Mácđala, bà Gioanna, và bà Maria, mẹ ông Giacôbê và các bà khác
cùng đi với mấy bà này”. Rồi tác giả nhắc lại việc các bà kể truyện và nói (có
chút lặp lại): “Họ (= tất cả các phụ nữ) nói với các tông đồ các điều này”. Bản
Tân Ước Hy Lạp Nestle-Aland 1998 theo
cách đọc này. 2) Trong trường hợp
thứ hai, câu văn được cắt đôi như sau: “Là bà Maria Mácđala, bà Gioanna, và bà
Maria, mẹ ông Giacôbê. Các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng nói với các tông
đồ như vậy” (CGKPV). Lời kể của các
bà này được coi như là một lời xác nhận lại lời kể của các bà đầu và như
thế, bản văn không có vẻ lặp lại. Tuy nhiên, cách cắt như thế dường như đi
ngược lại với lô-gích của cả đoạn 23,55–24,10. Ngay lúc đầu, ở 23,55, nhóm các
phụ nữ được nêu lên không có chia nhóm nhỏ; rồi khi nói đến các hành động của
họ sau đó, kể cả 24,9, ta hiểu đó là hành động của cả một nhóm, và chỉ
đến cuối, ở 24,10a, tác giả mới cho biết nhóm đó gồm những ai. Cả ở câu 24,11,
“các ông cho đó là chuyện vớ vẩn, nên chẳng tin các bà”, thái độ không tin được
các tông đồ tỏ ra là với cả nhóm các phụ nữ. Chỉ ở 24,10 mới có sự chia nhóm
thì khó thuyết phục. Do đó, có thể nói, ở 24,9-10a, tác giả nhấn mạnh trên việc
các phụ nữ loan tin, còn ở 24,10b-12, ngài nhấn mạnh trên phản ứng của các tông
đồ.
-
tông đồ (10b): Lc đặc biệt quan tâm đến danh hiệu “hoi apostoloi”
và chức năng thừa sai của các ông (Lc
6,13; 9,10; 11,49; 17,5; 22,14; 24,10; trong Cv 28 lần; x. Mt 10,2; Mc 3,14; 6,30). Các ông là những người
đã được Đức Giêsu ký thác cho sứ mạng tiếp tục công việc của Người (x. 9,1-6).
-
Nhưng các ông cho đó là chuyện vớ vẩn (11): dịch sát là “Các lời ấy
[ta rhêmata tauta] có vẻ là lời nói sảng [lêros]” (NTT). Từ nghữ rhêma,
“lời nói; sự việc” thường được Lc
dùng (Mt 5 lần; Mc 2 lần; Lc 19 lần; Ga 12 lần; Cv 14 lần); để chỉ một khối các lời nói và/hoặc các sự việc
thì tác giả dùng số phức (Lc 1,65;
2,19.51; 7,1; 24,8.11). Ở Lc 7,1 và
24,8, từ này chĩ có ý nghĩa giới hạn là “các lời nói”; ở 1,65 và 2,19.51, từ
này có nghĩa là “các lời và các hoàn cảnh”. Bởi vì lêros (chỉ có trong
quyển ngụy thư 4 Mcb 5,11 và Lc 24,11) có nghĩa là “nói ba hoa; nói
nhảm; nói sảng” và được dùng ở 24,11 để nêu đặc tính của ta rhêmata tauta,
công thức này dường như chỉ có nghĩa là “các lời này”; do đó dịch như NTT là tốt. Mọi sự chỉ dừng lại ở bình
diện các lời nói.
- Ông
trở về nhà (12): Công thức aperchesthai
pros heauton có nghĩa là “trở về nhà” (x. Ga 20,10); Nova Vulgata
dịch là “rediit ad sua”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Các
phụ nữ đi ra mộ Đức Giêsu (1-3)
Các phụ nữ đã quyết định đi tẩm liệm
lại thi hài của Đức Giêsu. Vào ngày sa-bát, các bà đã giữ luật nghỉ ngày thứ
bảy để giữ đúng lệnh Thiên Chúa truyền (kata tên entolên). Đây là một
thời gian yên tĩnh và suy nghĩ. Vào ngày thứ nhất trong tuần, lúc tảng sáng (orthros
bathys, “vừa hừng sảng”), các bà đã đi ra mộ Đức Giêsu. Lý do các bà đi ra
đó được báo trong câu tiếp sau: “mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn” (x.
23,56a). Câu này kết nối bản văn với phần đi trước. Vào ngay chiều an táng Đức
Giêsu (khác với Mc 16,1), các phụ nữ
đã chuẩn bị dầu và thuốc thơm, rõ ràng là để tẩm liệm thi hài Đức Giêsu, cho dù
tác giả Lc không dùng minh nhiên động
từ aleiphein, “xức dầu” (x. Mc
14,6). Tình thương mến của các bà đối với Đức Giêsu, nay chỉ còn là một thi
hài, được diễn tả ra trong “việc tốt” (x. Mc 14,6) là việc xức dầu. Do đó các bà đã chuẩn bị, rồi bây giờ đi
ra mộ càng nhanh càng tốt. Nhưng có hai khám phá lạ lùng và trái ngược
với những gì các bà đang chờ đợi: 1) tảng đá đã lăn ra khỏi mộ; 2) không thấy
thi hài Đức Giêsu.
Rất
có thể các bà chờ đợi gặp một ngôi mộ đóng kín (x. Mc 16,3-4), bây giờ lại thấy một ngôi mộ mở. Một ngôi mộ mở luôn
luôn làm cho người ta sợ: nó làm cho ta nghĩ đến một cái mõm của một con quái
vật sẵn sàng nuốt trửng các nạn nhân. Nó đã nuốt trửng một nạn nhân cách đây ba
ngày, thế mà chưa đủ sao? Điều đầu tiên các bà nghĩ tới là hẳn đã có trộm. Dù
có bản án tử hình cho kẻ nào xúc phạm đến các ngôi mộ, cám dỗ vẫn rất lớn. Biết
đâu các bà cũng nghĩ rằng hay là linh hồn Đức Giêsu đã nhập vào lại thân xác
Người, nên Người lại sống, nhưng Người đâu rồi? Các bà lại không thấy thi hài
Đức Giêsu đâu cả. Đến lúc này, các bà không còn biết phải làm gì nữa, các bà
lúng túng (c. 4). Ở Lc 24,3, hành vi
các bà bước vào mộ không được kết nối với việc các bà thấy một thiên sứ
(khác với Mc 16,5); và chính các bà
nhận ra rằng không có thi hài, chứ không do vị thiên sứ lưu ý (như trong Mc 16,6). Trong Lc, sự phân vân bối rối của các bà hoàn toàn dựa trên các nhận xét
của chính các bà là những người phàm; và đây là khung cảnh trong đó hai thiên
sứ xuất hiện.
* Hai
người đàn ông thông tin cho các bà (4-8)
Có hai người đàn ông đến bên họ, y
phục sáng chói (c. 4). Cv 1,10 có kể
lại một cuộc xuất hiện tương tự của hai người đàn ông. Khi đó, bởi vì
các môn đệ còn đang ngơ ngác khi chứng kiến Đức Giêsu biến mất, hai vị ấy đã
giải thích hoàn cảnh: Đức Giêsu đã được đưa lên trời và một ngày nào đó,
Người sẽ trở lại (Cv 1,11). Sự kiện
các vị này có mặt hai người chứng tỏ họ là những chứng nhân (x. Đnl 19,15) và nêu bật giá trị của các
lời của các vị. Y phục sáng chói (x. Mt
28,3) cho hiểu là các vị đến từ thiên giới. Ở xa hơn, hai người này được nhận
dạng là “thiên thần” (24,23). Mc thì
nói là “một người thanh niên” (Mc
16,5), Mt thì nói rằng “thiên thần
Chúa từ trời xuống” (Mt 28,2), còn Ga thì nói đến “hai thiên thần” (Ga 20,12). Các tác giả TM dùng ngôn ngữ khác nhau, nhưng sứ
điệp thì y như nhau: trời cao đã gửi ánh sáng xuống để làm sáng tỏ mầu nhiệm sự
chết, để trả lời cho một trong những điều bí nhiệm lớn lao nhất vẫn đang làm
rối loạn các con tim.
Thấy hai người lạ đó, các bà “sợ hãi”
(emphobos: x. Lc 24,37; Cv 10,4; 24,25); đây là một phản
ứng bên trong. Tác giả còn ghi thêm một cử chỉ bên ngoài: các bà “cúi
gầm xuống đất”, tức không dám ngước mắt lên nhìn. Hai người đàn ông bắt đầu can
thiệp (cc. 5b-7) bằng một câu hỏi, tiếp theo là hai khẳng định rồi kết
thúc bằng một mệnh lệnh cách; ở đầu không có lời khuyến khích “đừng sợ”
như ở Mt 28,5 và Mc 16,6. Câu hỏi nêu bật đặc tính phi lý của hành vi của các bà.
Các bà tìm cách đến gần Đức Giêsu, nhưng đã chọn sai chỗ. Ta có thể ghi nhận
một thứ “đóng khung” giữa hai câu hỏi: Lc 2,49: “mà tại sao lại tìm con” và Lc 24,5: “tại sao các bà đi tìm Người Sống ở giữa kẻ chết”. Câu hỏi
thứ nhất, Đức Giêsu 12 tuổi ngỏ lời với Maria và Giuse; còn câu thứ hai là do
hai nhân vật ngỏ với các phụ nữ. Trong cả hai trường hợp, vấn đề là đi tìm Đức Giêsu theo cách không
xứng hợp. Ở 24,15, ta ghi nhận sự đối lập rõ ràng giữa “Người Sống” (ho zôn)
và “giữa kẻ chết” (meta tôn nekrôn). Hai người đàn ông đã tỏ bày cho
biết Đức Giêsu là “Người Sống”. Đặc điểm phù hợp với Đức Giêsu nhất, đó là sự
sống (Lc 24,23; Cv 1,3; 25,19; Kh 1,18):
Người không còn thuộc về vương quốc của kẻ chết một tí nào nữa. Câu hỏi
của hai thiên sứ có hàm ẩn một ý trách móc, dù sao cũng nhằm sửa chữa
cách hành động của các phụ nữ. Các câu 5 và 6 ở thể chuyển hoán nhắc lại và
giải thích câu hỏi của các thiên sứ. Lời khẳng định “Người không ở đây” nhắc
lại rằng Đức Giêsu không còn ở trong mộ nữa, không còn ở giữa kẻ chết nữa. Lời
khẳng định “Người đã trỗi dậy” giải thích sự vắng mặt của Người và cũng xác
định bản chất của sự sống của Người. Người không quay lại với sự sống trần thế,
vì Thiên Chúa đã đưa Người vào trong sự sống thần linh của Ngài (x. 24,34).
Sau
đó, bằng mệnh lệnh “hãy nhớ lại” (mnêsthête), hai người yêu cầu các bà
nhớ lại các lời Đức Giêsu đã nói trước với các bà khi còn ở Galilê và kết nối
sứ điệp vừa được nghe với các lời báo trước đó. Như thế không phải là các bà
mới nghe sứ điệp này lần đầu tiên, bởi vì sứ điệp này chỉ là ghi nhận sự hoàn
tất các lời Đức Giêsu đã nói trước đây. Không những các môn đệ mà cả các phụ nữ
cũng đã ở với Đức Giêsu tại Galilê (Lc
8,1-3) và đã đi với Người trên đường lên Giêrusalem (24,55). Do đó, các bà phải
biết các lời tiên báo này (9,22.44; 17,25; 18,32t). Trong khi Mt 28,6 chỉ vắn tắt nhắc tới các tiên
báo đó của Đức Giêsu, Lc 14,7, cho dù
không trích rõ ràng một lời nào, lại hàm chứa mọi yếu tố của các lời
tiên báo đó: nói đến Con Người (x. 9,22.44; 17,25; 18,31) bằng cách để ở đầu
câu; nêu bật ý muốn cứu độ của Thiên Chúa (dei, “điều cần thiết”; x.
9,22; 17,25); nhắc đến việc Người bị nộp vào tay người tội lỗi (x. 9,44 nhưng
không có từ “tội lỗi”), việc Người bị đóng đinh (nhưng 9,22 và 17,33 nói là “bị
giết”) và việc Người sống lại (17,33: anastêsetai) vào ngày thứ ba
(9,22; 17,33). Liên hệ giữa các lời tiên báo của Đức Giêsu và các biến cố thuộc
số phận Người được khẳng định mạnh mẽ, rõ ràng là để giúp chấp nhận và hiểu con
đường của Đức Giêsu. Chính Đấng Phục Sinh cũng quy chiếu về các lời Người đã nói
trước đây (24,44), nhưng đặc biệt quy chiếu đến những gì được viết về Người
trong Kinh Thánh (24,25-27.44-46; x. 17,31-33).
Với
lời kêu gọi hãy nhớ lại, chấm dứt các lời nói của hai người. Các bà không được
cử đi đến với các môn đệ và không phải loan báo cho họ một cuộc gặp gỡ
với Đức Giêsu Phục Sinh tại Galilê. Tác giả Lc
cũng không ghi lại một phản ứng tình cảm nào của các bà khi được nghe sứ
điệp Phục Sinh (Mt 28,8: “sợ hãi và
rất đỗi vui mừng”; Mc 16,8). Ngài chỉ
cho thấy rằng các bà đã thật sự nhớ lại những điều Đức Giêsu đã nói (24,8).
* Các
phụ nữ đưa tin cho Nhóm Mười Một (9-10a)
Trong khi Lc 24,1-8 được xác định là mộ Đức Giêsu, đoạn văn tiếp theo lại tập
trung vào cuộc gặp gỡ của các phụ nữ với Nhóm Mười Một và những người khác
(24,9-12). Tuy nhiên, phản ứng của Phêrô đã lại đưa ông ra mộ (c. 12). Ở bên
trong 24,9-12, có thể phân biệt ra bài tường thuật của các phụ nữ (cc. 9-10a)
và phản ứng của những người nghe (cc. 10b-12): các phụ nữ, nay được giới thiệu
rõ ràng tên tuổi, đã về tường thuật tình hình cho các tông đồ (cc. 9-10a),
nhưng các tông đồ cho là chuyện phi lý nên không tin các bà (cc. 10b-12). Thật
ra nhóm nghe các bà kể lại là “Nhóm Mười Một và mọi người khác” (tois
hendeka kai pasin tois loipois: 24,9 // 24,33: tous hendeka kai tous syn
autois, “Nhóm Mười Một và những người đang ở với các ông”).
Nòng
cốt của nhóm này là “Nhóm Mười Một” (hoi hendeka: Mt 28,16; Lc 24,9.33; Cv 1,26; 2,14), nghĩa là những người
thuộc “Nhóm Mười Hai” (hoi dôdeka: Mt
8 lần; Mc 11 lần; Lc 7 lần; Ga 4 lần) còn trung thành sau khi Giuđa đã hư hỏng (22,3-6). Đây là
một cộng đoàn có tổ chức, cũng là điểm quy chiếu cho các kinh nghiệm của
từng thành viên, đặc biệt cho những gì liên hệ đến các biến cố Vượt Qua
(24,9.33).
Khi
nêu rõ tên gọi của ba phụ nữ (x. Mt 28,1
và Mc 16,1), tác giả cho hiểu rằng
lời chứng của các bà không vô danh và
kém giá trị, nhưng đến từ những người được xác định rõ. Trong khi ở 23,49.55, Lc chỉ nói đến các phụ nữ (gynaikes;
ở Mt 27,56.61 và Mc 15,40.47, các bà có tên), bây giờ (24,10) ngài nêu lên một vài
tên đã nói đến trong lần đầu (8,2t). Ở vị trí đầu tiên, luôn luôn là bà Maria
Mácđala (cả trong Mt và Mc; x. Ga 19,25; 20,1.18); bà này có vẻ là người hứơng dẫn, là người năng
động nhất. Chỉ ở Lc 24,10, xuất xứ
của bà (Mácđala) mới được nêu ra, có lẽ để phân biệt với một Maria khác.
Cùng với các tên riêng, có ghi nhận về các bà khác. Ba bà được nêu tên là nòng
cốt của một nhóm đông hơn (x. 24,9.33).
*
Nhóm Mười Một phản ứng trước các lời của các bà (10b-12)
Sau một ghi nhận ngắn về việc
các bà tường thuật các sự việc, tác giả ghi ra hai phản ứng: toàn Nhóm Mười Một
không tin các bà và Phêrô chạy ra mộ.
Tại Lc 24,10, thay vì Nhóm Mười Một, tác giả nói đến các “tông đồ” và
không nhắc đến những người khác. Tác giả nêu bật nhóm trung tâm và nhiệm vụ của
các ông là những ngườii được sai đi. Nay các ông từ khước chứng từ của các phụ
nữ.
Tác
giả nhắc ba lần đến việc các bà kể lại: apêngeilan tauta panta (c. 9); elegon
… tauta (c. 10b); ta rhêmata tauta (c. 11). Mọi sự chỉ dừng lại ở
bình diện các lời nói. Các tông đồ không nhìn nhận rằng các lời nói của các phụ
nữ được đặt trên các sự kiện, nhưng không có thật giống các lời nói sảng của
một người đang mơ (x. Nova Vulgata: “Et visa sunt ante illos
sicut deliramentum verba ista”). Bằng cách đó, tác giả cũng nêu bật tính
cách phi thường và khôn tả của những gì vừa được khẳng định trong các lời này.
Hậu quả là các tông đồ không tin các phụ nữ (êpistoun autais; x. 24,41),
không coi các bà là những người đáng tin.
Tác
giả cũng nói đến một phản ứng riêng của Phêrô: ông chạy ra mộ để kiểm
chứng những gì các bà đã tường thuật. Ngay từ đầu Phêrô đã đóng một vai
trò đặc biệt (x. Lc 4,38; 5,1-11;
6,14; v.v.); Đức Giêsu đã cầu nguyện cho đức tin của ông và đã ký thác cho ông
nhiệm vụ củng cố các anh em ông (23,31t). Lần cuối cùng ông xuất hiện, đó là
vào dịp chối Đức Giêsu ba lần (22,54-62). Bây giờ ông đi lại hành trình mà các
phụ nữ đã thực hiện trước ông (24,1) và chạy đến mộ (x. Ga 20,3.4.6; theo Lc
24,24 và Ga 20,1-9, ông không đi một
mình). Hành vi chạy là một cách ứng xử lạ thường đối với một người
lớn (x. Lc 15,20; 19,4; Mt 28,8) và cho thấy một sự quan tâm và
một nỗ lực đặc biệt. Ông cũng chỉ thấy một ngôi mộ trống, nhưng
ông kiểm chứng kỹ càng (24,12; x. Ga
20,5).
Vào
dịp liệm thi hài Đức Giêsu, cả bốn tác giả Tin
Mừng đều nhắc đến tấm khăn dùng để bọc thi hài Đức Giêsu (hê sindôn
= tấm vải lanh mịn, tấm khăn: Mt
27,59; Mc 15,46; Lc 23,53; ta othonia = các dải vải lanh, các dải vải: Ga 19,40). Chỉ có Lc và Ga nói đến việc
Phêrô (và trong Ga, với một môn
đệ khác) kiểm chứng ngôi mộ. Vào dịp này, cả Lc cũng nói đến othonia (Lc
24,12; x. Ga 20,5.6.7). Phêrô ghi
nhận, trong tư cách chứng nhân mắt thấy (blepein, “nhìn xem”) rằng ở
trong mộ chỉ có các dải vải, chứ không có thi hài mà các dải vải này đã bọc lại.
Ít ra phần tường thuật này của các bà được chứng tỏ là thật. Từ “không tin”, vị
tông đồ chuyển sang “ngạc nhiên” (thaumazôn; x. 24,41 là nơi tác giả kết
nối apistein với thaumazein). Đối tượng của sự ngạc nhiên là to
gegonos, “sự việc đã xảy ra”, dường như không chỉ là ngôi mộ trống, mà còn
là tất cả những gì có trước đó, kẻ cả những gì các phụ nữ đã kể. Thế là “ông
trở về nhà” (apêlthen pros heauton).
Sự kiến tác giả không nói rằng Phêrô trở về cộng đoàn (x. Lc 24,9.33), dường như chuẩn bị cho truyện Chúa Phục Sinh hiện ra
cho riêng Phêrô (24,34).
+ Kết
luận
Qua
bản văn này, các phụ nữ Galilê là cái cầu liên kết sự hiện diện chứng kiến hoạt
động của Đức Giêsu tại Galilê (Lc
8,1-3) với sự hiện diện trong hành trình của Người lên Giêrusalem, khi Người chết
và được mai táng (23,49.55) và với lời loan báo Người sống lại. Bài tường thuật
liên tục Lc 23,55–24,10 (12) là một
biểu tượng về sự kết hiệp liên tục, và được xác nhận cách tuyệt vời, của
các phụ nữ Galilê với Đức Giêsu. Các bà đã làm tất cả những gì có thể làm về
phương diện con người, để rồi ghi nhận mồ đã trống và thi hài của Đức Giêsu
không còn ở đó nữa (24,2t; x. Ga
20,2); rồi Phêrô cũng đến để đích thân ghi nhận như thế (24,12). Bây giờ, các
bà lại được coi là những con người ân cần, đáng tin cậy. Các bà cũng xuất hiện
(= được nhắc tới) trong truyện hai môn đệ Emmau như là những người đầu tiên đã
đánh thức cộng đoàn để ra khỏi tình trạng tê cóng (24,22-24) để rồi lại tiếp
tục hiện diện ở trong lòng cộng đoàn (x. Cv
1,14).
5.- Gợi ý suy niệm
1.
Các phụ rời mộ như là những người đã chứng kiến sự trống trải và đã nhận được
một lời giải thích có thế giá cho sự kiện, tương ứng với chính những lời
Đức Giêsu đã nói. Nay các bà xác tín rằng việc xức dầu cho thi hài không còn
phải là cách xứng hợp để diễn tả tình yêu đối với Đức Giêsu nữa; tình yêu của
các bà bây giờ đã có một “đối tượng” mới, hết sức cao vời, đó là Đức Giêsu đã sống lại và đang
sống. Tất cả những điểm này chính là nội dung các bà loan báo cho cộng đoàn (Lc 24,8).
2.
Các phụ nữ không nhận được nhiệm vụ đi đến với các môn đệ để xác nhận với họ
những gì Đức Giêsu đã nói với họ trước khi di vào cuộc Thương Khó. Các bà không
phải là các sứ giả để đưa ơn gọi mới đến cho các môn đệ, để giao hòa các ông
với Đức Giêsu và để đưa các ông đi gặp Người tại Galilê. Điều này tương ứng với
các bản văn khác của Lc. Tác giả
không nói đến lời tiên báo của Đức Giêsu có ở Mt 26,32; 28,7 và Mc
14,28; 16,7. Các môn đệ không có mặt kể từ khi Đức Giêsu bị bắt (22,54) cho đến
khi các phụ nữ loan tin Người đã sống lại (24,9), ngoại trừ Phêrô (22,54-62).
Nhưng tác giả Lc không nhắc lại sự
thất bại của họ, không kể lại lời tiên báo của Đức Giêsu về sự sa sút của họ
(x. Mt 26,31; Mc 14,27), cũng như việc họ bỏ Người mà trốn (x. Mt 26,56; Mc 14,50). Trong Lc,
không có đề tài nói về sự bất trung của nhóm gần kề Đức Giêsu nhất và nói về
việc Đức Giêsu giao hòa với họ; sự tha thứ cho việc Phêrô chối Người dường như
đã được hiểu ngầm trong lời Đức Giêsu cầu nguyện cho ông, trong nhiệm vụ được
giao cho ông trong tương lai (22,31t) và trong cái nhìn Đức Giêsu hướng về ông
sau sự cố (23,61t).
3.
Bản văn là một lời mời gọi thấy tầm quan trọng của các lời Đức Giêsu.
Các phụ nữ được mời gọi nhớ lại các lời Đức Giêsu đã nói. Nhờ nhớ lại các lời
ấy, nhờ suy nghĩ cân nhắc về tương quan giữa các lời và các biến cố, các lời
được trân trọng và các biến cố được đánh giá và hiểu đúng đắn. Các lời và các
biến cố soi sáng lẫn nhau. Chỉ dưới ánh sáng của các lời Đức Giêsu đã nói (x. Lc 22,61; 24,8; Ga 2,22) và của Kinh Thánh (x. Lc
24,25-27.44; Ga 2,17; 12,16), các
biến cố thuộc cuộc đời Đức Giêsu mới nên sáng tỏ và hiểu được. Chúng ta có thể
gặp được Đức Giêsu qua Lời của Người. Nhờ nhớ lại Lời của Người, chúng ta mở
lòng ra với Người là Đấng Phục Sinh.
4.
Chứng tá của các phụ nữ là nhắm đến cộng đoàn các môn đệ Đức Giêsu. Trong Mt và Mc, nhiệm vụ của các bà chỉ nhắm đến Nhóm Mười Một (x. Mt 28,16; Mc 14,17; 14,28; 16,7). Trong Lc,
cộng đoàn với Nhóm Mười Một như là nòng cốt, xuất hiện ra như một nhóm
khá vững chắc và như là điểm quy chiếu rõ ràng cho các cá nhân (Lc 24,9.33; Cv 1,13t). Cộng đoàn nên phong phú nhờ các kinh nghiệm của từng cá
nhân cũng như các lời chứng của các phụ nữ (Lc
24,9), của hai môn đệ Emmau (24,35) và của Phêrô (24,34). Những kinh nghiệm và
chứng tá đó cuối cùng được xác nhận và đóng ấn bởi chính Đức Giêsu Phục Sinh
khi Người hiện ra. Khi đó, cộng đoàn trở
thành một cộng đoàn thật sự vượt qua, vững vàng trong niềm tin vào Đức
Giêsu Phục Sinh.
5.
Chính sự khó tin của các tông đồ cho thấy rằng lời loan báo về Đức Giêsu Phục Sinh
không phát xuất từ những con người ngây ngô dễ tin, nhưng từ những con người
chín chắn và có óc phê bình. Phản ứng của Phêrô cho thấy rằng chứng từ của các
phụ nữ đã là một thứ kích thích đưa ông ra khỏi tình trạng bất động, để
tiến đi trong một hành trình kiểm chứng đưa tới chỗ gặp Đức Giêsu Phục
Sinh (Lc 24,12.34).
6.
Chúa Giêsu có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Người đã thay đổi đời
sống chúng ta, và đứng bên cạnh những ngôi mộ của chúng ta, chúng ta
“nhớ” Chúa Giêsu. Chúng ta “nhớ” đức tin chúng ta đặt vào Chúa Kitô
sống lại từ cõi chết, làm chúng ta thêm can đảm thắng những sự dữ
trong đời chúng ta, giúp chúng ta tiếp tục cố gắng làm những gì để
sự sống Nước Trời được thực hiện trong đời sống chúng ta, và giúp
chúng ta không chán nản vì sự thay đổi chậm trễ trong đời sống chúng
ta và đời sống kẻ khác. Chúng ta nhớ lời Chúa Giêsu khi chúng ta
được tin buồn, và khi chúng ta nhìn ngôi mộ của sự chán nản và thất
bại: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi,
tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”. “Đây là mình Thầy…” “Phúc cho những ai
có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Chúng ta nhìn vào
ngôi mộ trống không với các phụ nữ, và chúng ta nghe lời khuyên bảo
của hai người đàn ông mặc áo chói lóa ở đó. Chúng ta nhớ lời Chúa
Giêsu nói. Lời Chúa và Bí Tích Thánh Thể là lương thực hàng ngày,
là của ăn đường giúp chúng ta sống như lời nói trong phụng vụ ngày
hôm nay “chúng ta vui mừng chờ đợi ngày Đức Giêsu Kitô đến” (Siciliano).
Lm FX Vũ Phan Long, ofm