TIỆC CƯỚI CANA
(Gioan 2,1-12 – CN II TN - C)
1.-
Ngữ cảnh
Về đoạn văn Ga 2,1-12, chúng ta có thể đặt ra câu hỏi sau đây: câu truyện Cana
mở ra một phân đoạn mới (gọi là “Sách các dấu lạ”, ch. 2–12) hoặc khép
lại một bài tựa mang tính tường thuật (1,19–2,12)?
Chúng tôi chọn đặt truyện Cana vào cuối bài
tựa tường thuật. Trong ch. 1, sau Bài Tựa (1,1-18), tác giả giới thiệu gương
mặt vị Tẩy Giả, vị chứng nhân, “bạn của chàng rể” (3,29), người ban phép rửa để
“Người [= Đức Giêsu] được tỏ ra cho dân Ít-ra-en” (1,31). Sứ mạng của Gioan là
bày tỏ chân tính thiên sai của Đức Giêsu. Vì lý do này, Anrê và một môn đệ nữa
đã đi theo Thầy (1,35-40). Anrê lại đi gặp Simôn và bảo: “Chúng tôi đã gặp Đấng
Mêsia” (1,41); chuyện cũng như thế đã xảy ra với Nathanaen (1,45-51). Tất cả
kết thúc tại Cana, với việc chính Đức Giêsu tỏ vinh quang ra (2,11).
Còn có những lý do khác khiến phải đi theo
chiều hướng này. Có thể kể ra hai lý do: 1) Cách tính các ngày làm thành một
tuần. “Hôm sau, ông Gioan thấy
Đức Giêsu tiến về phía mình” (1,29). “Hôm
sau ông Gioan lại đứng đó” (1,35). “Hôm
sau, Đức Giêsu quyết định đi tới miền Galilê” (1,43). Cuối cùng, “ngày thứ ba có tiệc cưới tại Cana miền
Galilê” (2,1). Đây đúng là một tuần, và tiệc cưới đã xảy ra vào ngày thứ
bảy. 2) Cần ghi nhận việc tác giả tích lũy các danh hiệu Kitô học. Đức Giêsu là
“Chiên Thiên Chúa” (1,29.36), “Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần” (1,33), là
“Rabbi” (1,38.49), là “Đấng Mêsia” (1,41), là “Con Thiên Chúa, vua Ít-ra-en”
(1,49). Rõ ràng các danh hiệu này là một tổng hợp việc mạc khải mầu
nhiệm Đức Kitô. Điểm tới của cụộc tỏ mình này là Cana: “Đức Giêsu tỏ vinh quang
của Người” (2,11). Việc Đức Giêsu tỏ mình ra tương ứng với việc các môn đệ đáp
lại: “Và các môn đệ đã tin vào Người” (2,11). Tới đây, cộng đoàn các môn đệ gồm
những người tin đã thành hình; Đức Giêsu có thể bắt đầu đời sống công khai.
Vậy có thể coi đây là Dẫn nhập bằng một dấu
lạ lịch sử: Truyện Tiệc cưới Cana kết thúc phần Dẫn nhập và đưa vào “Sách các
dấu lạ của Đức Giêsu”, nên có thể gọi là đoạn văn “làm cầu”.
2.- Bố cục
Bài tường
thuật được giới thiệu như là một “dấu lạ”, nên có thể tìm bố cục theo
cách cấu trúc cổ điển của các phép lạ. Nhưng chúng ta có thể tìm ra bố cục theo
cấu trúc đồng tâm sau:
A = Phần tường thuật (2,1-3);
B = Các đối thoại (2,4-8):
Thân mẫu Đức Giêsu và Đức Giêsu,
Thân mẫu Đức Giêsu và các kẻ hầu bàn,
Đức Giêsu và các kẻ hầu bàn;
A’= Phần tường thuật (2,9-11).
3.-
Vài điểm chú giải
-
Ngày thứ ba (1):
Chi tiết thời gian này có mục đích nối kết phép lạ đầu tiên của Đức Giêsu với
núi Sinai (Xh 19,1.10-11.16) và cuộc
Phục Sinh (Ga 2,19-22; x. 7,30;
8,20…).
Như
thế, Cana một đàng là phiên bản của những gì đã xảy ra tại núi Sinai, đàng
khác, là một lời tiên báo mào đầu cho mạc khải tối hậu phát xuất từ cuộc Phục
Sinh của Đức Kitô.
- tại Cana miền Galilê
(1a và 11a): Trong Tân Ước, thành này
chỉ được Ga nhắc tới (x. cả 21,2).
Thông thường người ta nghĩ đến Khirbet Qana, cách Nadarét 15 cây số. Đây là nơi
hẻo lánh, không mấy quan trọng.
- Có tiệc cưới: Theo tập tục thời ấy, một đám cưới kéo dài từ
ba ngày đến một tuần (ba ngày: trường hợp một quả phụ tái giá). Khung cảnh tiệc
cưới nối kết câu truyện Cana với đề tài quen thuộc trong Cựu Ước: hôn lễ của Đấng Mêsia với Dân Người. Trong TM IV, Gioan Tiền Hô sẽ giới thiệu Đức
Giêsu là chàng rể (3,29); còn trong các TMNL, Đức Giêsu tự coi mình là
chàng rể (Mc 2,19; Mt 9,15; Lc 5,34), và đã mô tả Nước Trời như một tiệc cưới (Mt 22,1-14). Cuối cùng, sách Kh
cũng vận dụng tới đề tài này để diễn tả sự kết thúc thời hiện tại và sự khai mở
thời tương lai (Kh 19,7-9; 21,2; so
với Ep 5,22tt). Theo tập tục, chính
chàng rể cung cấp rượu (x. c. 10).
- có thân mẫu Đức Giêsu: Đức Trinh Nữ được giới
thiệu là “thân mẫu Đức Giêsu”, rồi ở
c. 4, Đức Giêsu lại gọi mẹ là “bà”.
Một sự cố tương tự lại xảy ra trên Núi Sọ trong Ga 19,25-27; như vậy, câu truyện Núi Sọ có những điểm chung với câu
truyện Cana. Có thể coi hai câu truyện này làm nên một thứ cấu trúc “đóng
khung”.
- Họ hết rượu rồi
(3): Người ta đã muốn coi lời
này chỉ là ghi nhận một sự kiện. Tuy nhiên, có lẽ nên thấy đây là một lời thỉnh
cầu kín đáo và tin tưởng Đức Maria bày tỏ với Con. Quả vậy, lời Đức Maria nói
với gia nhân (c. 5) cho thấy rằng bà có xin Đức Giêsu một điều gì đó.
- Thưa bà (gynai)
(4): Một người Do Thái gọi mẹ
là ’immâ, “mẹ của con”. Vì thế danh
hiệu “bà” (gynê; femme, woman) được
Đức Giêsu dùng mà gọi Đức Maria có vẻ kỳ lạ. Trong thực tế, Đức Giêsu cũng sử
dụng danh xưng ấy để gọi các phụ nữ khác trong TM IV (4,21: bà Samari;
20,13: bà Maria Mácđala) và trong các TMNL (Mt 15,28; Lc 13,12). Dù
sao, đối chiếu với Ga 19,25-27, danh
xưng này không thể có một ý nghĩa tiêu cực. Rất có thể qua tiếng “bà” (E.
Farahian đề nghị dịch trong tiếng Ý là “signora”), Đức Giêsu đề ra một cách
công khai hơn để gọi mẹ ruột của mình tại nơi công cộng. Ngoài ra, với từ ngữ
này, chắc chắn ở bình diện biểu tượng, có một gọi ý đến cuộc tạo dựng: Đức
Maria xuất hiện ra như là Evà mới, hoặc hơn nữa, như là đại diện của dân
Israel, hoặc tốt hơn nữa, như là Israel đích thật.
- Chuyện đó can gì đến bà và
con? (4): dịch sát: “Giữa tôi và bà, nào có việc gì?” (NTT). Ti emoi kai soi (Hp: mah-li wâlâk): Đây là cách diễn tả quen
thuộc trong văn chương Hy Lạp, Rôma và Sêmít để diễn tả sự ưng thuận hoặc bất
thuận giữa hai hoặc nhiều người. Chỉ có văn cảnh mới giúp thấy rõ các sắc thái
của mỗi trường hợp.
- Giờ của con chưa đến (4):
Nếu quan tâm tới ý nghĩa của thuật ngữ “Giờ
của Đức Giêsu” theo TM Ga, và tới giá trị biểu tượng của
rượu, chúng ta sẽ thấy rõ. “Giờ của Đức
Giêsu” là Giờ Khổ Nạn–Phục Sinh; còn rượu tượng trưng cho Lời mạc khải, Tin
Mừng của Người, là Luật mới sẽ được tỏ lộ trọn vẹn khi đến “Giờ” Người đi qua
thế gian này mà về với Cha Người (x. Ga
13,1).
- Rượu
(3): Cựu Ước, truyền thống Do Thái
giáo cũng như chính văn cảnh của TM Ga
cung cấp cho chúng ta các ý nghĩa của “rượu”.
*
Thời thiên sai và cánh chung:
Các
ngôn sứ nói rằng khi Thiên Chúa quy tụ con cái tản mác lưu đày về và cho họ
được định cư, rượu và các sản phẩm khác sẽ được ban cho họ dư dật (Am 9,13; Ge 2,24; Gr 31,12; Ge 2,19-16). Rượu này lại có phẩm chất
rất tốt (Hs 14,8; Is 25,6; Dcr 9,17). Rượu và sữa được tặng không (Is 55,1). Trong Hs
2,21-22 và Is 62,5, sự phì nhiêu của
hoa mầu ruộng đất được ghép vào hình ảnh cuộc hôn nhân giữa Thiên Chúa và Dân
Ngài. Cuộc hôn nhân này tượng trưng Giao Ước mới ký kết với con cái Israel,
được quy tụ về (Ge 31,8-10.31-37). Có
hai bản văn trực tiếp mang tính thiên sai, St
27,28-29 và St 49,10-12: Thời đại
thiên sai được mô tả bằng một giọng văn đầy hình ảnh: “rượu mới dồi dào” (St
27,28); muốn buộc con lừa, Đấng Mêsia chỉ có dây nho; muốn giặt áo, Người chỉ
có rượu; và rượu làm cặp mắt Người ngời sáng (St 49,11-12).
Trong Diễm ca, “rượu” được dùng
8 lần để tượng trưng tình yêu nồng nàn của đôi nam nữ (Dc 1,2-4; 2,4; 4,10; 5,1; 7,3-10; 8,2).
*
Rượu và Lời Thiên Chúa:
Trong
Cựu Ước, Luật Môsê (hoặc Lời Thiên
Chúa) được đặt trong quan hệ với rượu, trong hai đoạn: Gr 23,9 và Cn 9,25. Sự
Khôn Ngoan đã dọn tiệc và mời khách, thật ra là Luật Môsê. Theo truyền thống Kinh Thánh, vị hiền nhân là người suy
gẫm và đào sâu Torah. Và rượu của sự Khôn Ngoan là Luật Thiên Chúa. Trong Hc 24,17, sự Khôn Ngoan lại tự ví mình
với một cây nho (x. Ga 15,1). Như
vậy, ta có chuỗi các khái niệm: Torah = Khôn Ngoan = cây nho = rượu.
* Rượu là biểu tượng của
Torah được Đấng Mêsia giải thích:
a) Truyền
thống Do Thái giáo:
Rượu
còn được coi như là biểu tượng của Torah được Đấng Mêsia giải thích: Vị này
được người ta chờ mong như một vị thầy chuyên môn về Luật Môsê (x. Targ Dc
8,12). Còn khi bản Midrash St R 98,9–49,11 nói rằng Đấng Mêsia “...
giặt áo mình trong rượu” (St 49,11),
điều này có nghĩa là Người sẽ viết lại những câu Luật cho người nhà mình, tức
sẽ đề nghị những ý nghĩa và lối giải thích Torah. Còn Người giặt “áo choàng
trong máu của nho”, có nghĩa là Người sẽ sửa chữa các lối giải thích sai lạc.
b) Tân Ước: x. Mt
5,17.21-22.27-28.31-32.33-34.38-39.43-44. Các TMNL ví giáo huấn của Đấng
Mêsia với rượu mới, Đức Giêsu là chàng rể của lễ cưới thiên sai. Rượu mới tượng
trưng cho Tin Mừng của Người, Mạc khải của Người; rượu này không thể pha trộn
với rượu cũ của Do Thái giáo (Mt
9,14-17; Mc 2,18-22; Lc 5,33-39).
* Giá trị biểu tượng của rượu
Cana:
Trong
thần học Gioan, Lời của Đức Giêsu là “Sự Thật” (Ga 8,31-32;
18,37; 17,8.14.17..), và điều quan trọng là Lời này được đồng hóa với chính Đức
Giêsu: “Thầy là Sự Thật” (14,6; x.
8,32-26). Tin Mừng của Đức Kitô được nhập thể cách rõ ràng nhất nơi bản thân và
trong những biến cố liên hệ tới bản thân con người đang loan báo Tin Mừng này,
là Ngôi Lời làm người: “Thầy là ánh sáng, bánh ban sự sống, sự sống lại, sự
sống...”. Vậy, Lời của Đức Kitô là Mạc khải của Người, Tin Mừng của Người.
Chúng ta nói “rượu” tượng trưng Lời
Đức Kitô là do những nhận định sau:
1) Cặp mẫu Sinai – Cana:
Chuỗi những ngày khai mạc sứ mạng ngôn
sứ của Đức Giêsu, là một phương tiện văn chương để phục vụ một ý tưởng thần
học. Cuộc thần hiển ở Sinai và những ngày trước đó (theo truyền thống Do Thái
giáo) là mẫu cho đoạn văn Gioan
(1,19-2,12). Theo một chiều hướng Kitô học, tác giả chú giải lại tuần lễ với
chóp đỉnh là việc Thiên Chúa ban Torah tại Sinai, vào “ngày thứ ba”.
“Ngày
thứ ba” của Cana tương ứng hoàn toàn với “ngày thứ ba”của Sinai. Cũng như ở Sinai, Thiên Chúa đã bày tỏ vinh
quang của Ngài khi ban Torah vào “ngày
thứ ba”, thì ở Cana, Đức Giêsu đã bày tỏ vinh quang của Người khi ban một
thứ rượu ngon hơn cũng vào “ngày thứ ba”;
rượu này tượng trưng cho sứ điệp Mạc khải của Người.
2) Động từ “giữ” (c. 10):
Người quản tiệc nói với tân lang: “...
Còn anh, anh lại giữ (HL. tetêrêkas) rượu ngon cho đến mãi bây
giờ”. Động từ “giữ” là động từ tiêu
biểu của từ vựng Gioan khi đề cập đến Lời–Điều răn của Đức Giêsu, và Lời
này là Lời của Chúa Cha. Tác giả Gioan đã dùng động từ ấy theo nghĩa này
ít ra 25 lần (8,51-52; 14,23; 15,20; 17,6; Kh
3,8 / Kh 3,10 / 14,24 / 1 Ga 2,5 = 8,55 / Kh 1,3; x.
22,7.9 / Kh 2,26 / 1 Ga 2,3; 3,22.24; 5,3 / Kh 12,17 / Kh 14,12. Lưu ý: Mc
chỉ dùng 1 lần (Mc 7,9); Mt 3
lần (Mt 27,36.54; 28,4); Lc 1
lần (Cv 15,5).
3) Nước thanh tẩy của tập
tục Do Thái:
Rượu Đức Giêsu ban lại lấy từ nước
đựng trong các chum dùng vào “việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái” (c.
6). Nước này không phải là nước phàm tục, mà là nước dùng trong nghi lễ, để
thanh tẩy các thực khách (x. Mc
7,2-5; Mt 15,2; Lc 11,38-39). Chính nước này được Đức Giêsu biến thành rượu. Điều
này có nghĩa là kể từ nay, “việc thanh tẩy” không còn được nối kết với việc giữ
Luật Môsê nữa (tượng trưng bằng nước trong sáu chum), mà là với việc giữ Tin
Mừng của Đức Kitô, giữ Lời của Người (tượng trưng bằng rượu ngon).
Thật ra, đây là giáo lý của tác giả Ga
về việc “thanh tẩy”. Các môn đệ được
“thanh tẩy” nhờ Lời Đức Giêsu đã loan báo cho họ (15,3). Sứ điệp mạc khải của
Đức Kitô là Sự Thật có thể giải thoát các môn đệ khỏi nô lệ tội lỗi
(8,32.34-36). Người nào ở lại trong Đức Giêsu, bằng cách đón nhận Tin Mừng của
Người (Ga 15,7; 1 Ga 3,6) thì không phạm tội nữa, mà được thánh hóa (1 Ga 3,6). Lời Đức Giêsu giống như một
hạt giống (1 Ga 3,9; x. Lc 8,11; 1 Pr 1,23; Gc 1,18; 1 Cr 4,15). Nhờ tác động của Lời, người
môn đệ có thể thắng sự dữ và ít sa vào tội lỗi hơn (1 Ga 2,14). Đây là cách Đức Giêsu “xóa bỏ tội trần gian” (1,29):
Người “thanh tẩy” con người bằng Lời Sự Thật của Người.
4) Rượu Cana, biểu tượng
của mạc khải cánh chung của Đức Kitô:
Rượu Cana không những là hình ảnh của
Lời mạc khải của Đức Giêsu, mà còn diễn tả chiều kích cánh chung của Lời này,
trong tư cách là Lời tối hậu và vĩnh viễn.
Chẳng hạn Ga 1,45: Philípphê nói với Nathanaen: “Đấng mà Sách Luật Môsê và
các Ngôn Sứ nói tới, chúng tôi đã gặp, đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người
Nadarét”. Từ Môsê và các Ngôn sứ, ta chuyển qua Đức Giêsu. Đây là điều đã được
nói ở 1,16-17. Dấu lạ Cana là một sự chuẩn nhận mang tính ngôn sứ cho niềm chờ
mong cánh chung xoáy vào con người Đức Kitô.
Khi Đức Giêsu ra lệnh đổ các chum “đầy
tới miệng” (c. 7), điều đó không chỉ có nghĩa là đổ nhiều tối đa, nhưng đặc
biệt có nghĩa là “hoàn toàn”. Sau Đức
Kitô, không còn có chuyện “còn nữa”, “sau đó” hoặc “thêm nữa”. Lời Người làm
đầy mức Mạc khải. Lời Người là “nguồn sung mãn” (1,16). Tuy nhiên, sự sung mãn
của Đức Kitô được thêm vào cho một mức độ có trước (x. Hr1,1). Rượu Người cung
cấp được lấy từ nước của Do Thái giáo
và thay thế thứ rượu bị thiếu. Nhiệm cục Luật Môsê bị vượt quá về chất lượng
bởi Lời Đức Kitô, là Lời loan báo một điều răn “mới” (Ga 13,34), điều răn của Giao Ước Mới giữa Thiên Chúa và loài người
trong Đức Kitô hiển vinh (x. Ga
14,20).
Tương quan giữa Luật Môsê và Lời Đức
Giêsu được diễn tả tuyệt vời bằng hai loại rượu được dọn tại Cana. Một loại
được tân lang phàm tục dọn, thì vừa bị thiếu (c. 3). Nhưng có một thứ rượu khác
được cống hiến bởi Tân Lang đích thực là Đức Giêsu (x. chú giải cc. 9e-10a).
Thứ rượu ấy, người quản tiệc đã không ngần ngại tuyên bố là “ngon (tốt)” (HL. kalôn), trong khi thứ rượu đầu có một
phẩm chất kém hơn (c. 10; HL. to elassô).
Những gì xuất hiện tại Cana là như
hình ảnh của một mở đầu, thì được kiểm chứng trong TM IV bởi những mẩu
đối thoại khác, trong đó nhắc lại sự cao trọng của Đức Giêsu và những ân ban
của Người, so với những nhân vật hoặc những định chế của Cựu Ước: hơn Giacóp (4,12), Môsê (5,46; 6,32-35), Abraham (8,58),
Đền Thờ (2,19-21; x. 4,21-23), Gioan Tẩy Giả (1,26-33), như Gioan đã tuyên bố
(3,29-30): “... Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi (Hl. elattousthai; từ này cùng một ngữ căn
với elassô, 2,10)”.
Tóm lại, rượu mới Cana, được giữ lại
“cho đến mãi bây giờ” (c. 10), là dấu chỉ cho thấy thời đại thiên sai đã bắt
đầu. Tác giả Ga sử dụng 4 lần thuật ngữ “cho đến bây giờ” (HL. eôs arti;
2,10; 5,17; 16,24; 1 Ga 2,8-9). Bằng
kiểu nói ấy, tác giả muốn ám chỉ tất cả các chặng của Lịch sử cứu độ, là những
chặng đi trước và chuẩn bị cho hoạt động của Đức Giêsu. Thời cánh chung đã đến
khi Đức Kitô đến.
Trong các lễ cưới nhân loại, rượu ngon
được đãi trước. Trong lễ cưới của Thiên Chúa với Dân Ngài, rượu ngon lại được
đãi sau cùng, Đức Giêsu là sự hoàn hảo, là ân ban tối hậu (x. Ga 4,10).
5) Quan hệ giữa rượu Cana
với “ngày thứ ba” và “Giờ của Đức Giêsu”:
Cuối cùng, các thuật ngữ “ngày thứ ba” (c. 1) và “Giờ của Đức Giêsu” đưa lại cho dấu lạ
Cana một ý nghĩa cánh chung: cả hai thuật ngữ quy hướng về những biến cố cuối
đời của Đấng Cứu thế, về cuộc Khổ Nạn quang vinh của Người.
Yếu tố “rượu” cũng có một vai trò trong chiều hướng cánh chung này. Chúng
ta nói rằng “rượu” tượng trưng cho Sự
Thật Phúc Âm đã được Đức Giêsu rao giảng, và đã nhập thể nơi chính bản thân
Ngôi Lời nhập thể. Thế nhưng lời cuối cùng của sứ điệp này, nghĩa là việc mạc
khải hoàn toàn về chân tính của Đức Kitô, chỉ nên rõ khi Đức Giêsu đi qua thế
gian này mà về với Cha Người (x. Ga
13,1). “Vào ngày ấy”, các môn đệ biết
rằng Đức Giêsu bằng Cha Người trong thần tính (14,20a; x. 10,31-33; 5,18), và
Người liên kết họ với Người trong sự hiệp thông với Cha Người (14,20b). Đây là
ngày xảy ra Giao Ước Mới được ký kết giữa Thiên Chúa và loài người để tiếp nối
và hoàn tất Giao Ước cũ.
Sau Phục Sinh, Tôma nhận biết Đức
Giêsu là “Đức Chúa và Thiên Chúa” của ông (20,28); nơi Người, được thực hiện
lời hứa thường được các Ngôn sứ nhắc lại: “Các ngươi sẽ là dân của Ta, và Ta sẽ
là Thiên Chúa các ngươi”.
Trong thời của mầu nhiệm Phục Sinh ấy,
Mạc khải không còn được truyền đạt bằng dụ ngôn hoặc hình ảnh nữa (16,25). Nay
đã được Thánh Thần hướng dẫn (16,13-14), các môn đệ không còn dám hỏi: “Người
là ai?” nữa (21,12; x. 16,23). Kể từ nay, các ông biết Người là “Đức Chúa, Kyrios” (21,12).
Lời Phúc Âm (được tượng trưng bằng
rượu Cana) nay rực sáng lên nơi Đức Kitô quang vinh.
- Người bảo gì, các anh cứ
việc làm theo (5b): Có lẽ Đức Maria không hiểu những
lời Đức Giêsu nói. Mẹ cũng giống như những người khác trong TM IV, ở tại
một bình diện hết sức cách biệt với Đức Giêsu. Tuy nhiên, Mẹ vẫn cứ hoàn toàn
ký thác cho ý muốn của Con và chuyển thông cho những người giúp việc chính lòng
tin của Mẹ đang mở ra với vô định.
- Mỗi chum chứa được khoảng
hai hoặc ba thùng (6. NTT): Một metrêtês (mesure) khoảng 40 lít
(Hp: êpah, éphah).
- Người quản tiệc ... không
biết rượu từ đâu ra (9c): Dọc theo TM IV,
ý tưởng này: ‘không biết nguồn gốc Đức Giêsu và Vương quốc của Người (x.
18,36)’ tái xuất hiện dưới nhiều hình thức. Chẳng hạn: 3,8; 4,10; 6,41;
9,29.30; 7,26-27 (x. 19,9).
Đức Giêsu vén mở cho thấy mầu nhiệm
bản thân Người khi xảy ra biến cố Khổ Nạn–Chết–Sống lại (x. Ga 7,33-35; 8,21-23; 23,36; 16,5.28).
Đây sẽ là một mạc khải vĩ đại có sức soi sáng các tín hữu và làm cho những kẻ
không tin phải bẽ mặt (1,51; 2,18-19; 3,11-15; 5,17.20; 6,62; 8,28; 12,32;
14,19-20).
- Còn gia nhân đã múc nước
thì biết (9d): Câu này không chỉ là một ghi nhận về sự kiện. Các “gia
nhân” là những người đã vâng theo lệnh Đức Kitô, theo lời mời của Đức Maria
(cc. 7-9).
Sự vâng phục chính xác của các gia
nhân khiến chúng ta nhớ lại lời Đức Giêsu đã hứa cho người giữ các điều răn của
Người (14,21). Như vậy, Đức Giêsu tỏ mình ra cho ai yêu mến Người bằng cách đưa
Lời Người ra thực hành. Người sẽ cùng với Chúa Cha đến lập cư nơi người ấy
(14,23). Ai yêu mến Đức Kitô là gia nhân đích thật của Người, Chúa Cha sẽ “quý
trọng” (tôn vinh) kẻ ấy (12,26).
Ba thành ngữ sau đây liên hệ với nhau:
“phục vụ Đức Kitô – Vâng theo Lời
Người – Đức Kitô tỏ mình ra”. Ai “phục vụ” Đức Giêsu, “vâng theo điều răn
của Người” (và ngược lại), Đức Kitô sẽ tỏ mình ra cho người ấy. Gia nhân ở Cana
đã chứng nghiệm điều trên rõ ràng. Họ được biết “rượu ngon” (= một phương diện
của thực tại Đức Kitô) “từ đâu đến”, chính là vì họ đã vâng lời Đức Giêsu mà
múc nước đổ đầy các chum. Thánh Gioan có nói: “Căn cứ vào điều này chúng ta
nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của
Người” (1 Ga 2,3).
Trong TM IV, hai viễn tượng
lịch sử và thần học thường lồng vào nhau. Như vậy, các câu 7c, 8d, 9d đã giới
thiệu các “gia nhân” ở Cana như là điển hình cho đời “phục vụ–vâng lời” mà Đức Kitô đòi hỏi trong Giao Ước mới
(x. Ga 13,34; 15,14).
- ông
gọi tân lang lại và nói...(9e-10a):
Câu này khiến chúng ta nghĩ rằng có một tân lang khác, tân lang đích thật, đang
chủ trì tiệc cưới: đó là Đức Giêsu. Bởi vì chính Người đã giữ rượu ngon lại “cho đến mãi bây giờ”.
Trong TM Ga (3,25-30), Gioan Tiền Hô giới thiệu Đức Giêsu như là
Tân Lang vẫn được mong đợi, và tuyên bố rằng, khi đối diện với Đức Kitô, vai
trò của ông là làm “bạn của tân lang” (c. 29), người lo mọi công việc chuẩn bị
cho lễ cưới (x. “được sai đi trước”: c. 28; làm chứng cho Đức Giêsu: c. 26; x.
1,31). Nay Tân Lang đã đến và có cô dâu (3,29), đó là các môn đệ; còn Gioan thì
vui sướng được nghe tiếng Người (c. 29) rồi rút lui vào bóng tối (c. 30).
Sách Khải huyền cũng ca tụng lễ
cưới của Chiên Con với Giêrusalem mới (19,7-8; 21,2).
Vì tác giả TM trình bày Dấu lạ Cana phỏng theo những truyền thống về Núi
Sinai, ta có thể nhớ rằng Giao Ước Sinai đã được trình bày dưới biểu tượng hôn
lễ kể từ nền văn chương ngôn sứ (x. Hs
2,16-25; Is 50,1; 54,4-8; 62,4-5; Gr 2,1-2; 3,1-13...)[1].
Trong khối Tân Ước có trước Ga,
ta có thể kể ra: Mt 22,1-14; 25,1-13
(Các dụ ngôn về Nước Trời như tiệc cưới); Mc
2,18-20 (Đức Giêsu tự giới thiệu như là “Chàng Rể”); 2 Cr 11,2; Ep 5,25-33
(Đức Kitô-Hôn Phu và Giáo Hội-Hiền Thê).
Loại hình ảnh biểu tượng này được dùng
rất phổ biến trong truyền thống Do Thái giáo. Chính thánh Âutinh đã viết: “Hôn
phu (chú rể) của tiệc cưới ấy là hình ảnh của Đức Chúa hiện thân...”[2].
- Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu
tiên này (11a): Nhiều nhà chú giải (C.K. Barrett; Olsson) ghi chú rằng
tác giả TM coi phép lạ Cana không
những như là dấu lạ “đầu tiên”, mà còn như điển hình của các dấu lạ Đức Giêsu
đã thực hiện. Bởi vì Người đã viết: “Tautên epoiêsan archên tên sêmeiôn Iêsous ...” (NAB: Jesus did this
as the beginning of his signs; TOB: Tel fut ... le commencement des signes de
Jésus; NTT: Dấu lạ đầu hết này, Đức Giêsu đã làm ...). Từ ngữ archê (khởi đầu, bắt đầu) gây ra một số
khó khăn; vì thế người ta đã đưa vào những dị bản, chẳng hạn prôtên (= thứ nhất).
Dường như trong Ga, từ archê không có
nghĩa là khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giêsu, như trong Lc (3,23; Cv 10,37), cũng
không phải là lời rao giảng của Gioan Tiền Hô trong hoang địa (Mc 1,1), thậm chí cũng không phải là lời
kêu gọi các môn đệ đầu tiên (Ga
1,35-51). Nhưng từ ấy có nghĩa là khoảnh khắc chính xác mà Đức Giêsu bắt đầu tỏ
mình ra cho các môn đệ (x. Ga 15,27;
16,4; 1 Ga 1,1-3). Vậy việc mạc khải
tiệm tiến của Đức Giêsu khởi sự tại Cana miền Galilê, và được tiếp tục dọc theo
sách Tin Mừng (x. Ignace de la
Potterie). Origiênê gọi dấu lạ Cana là “prohêgoumenon
sêmeion”, một dấu chỉ “ưu việt”. Zerwick & Grosvenor giải thích: “such was the first of the signs that Jesus
did; Jesus did this as his initial sign”.
Vậy rượu mới ở Cana không chỉ là “dấu
lạ đầu tiên”, mà cũng còn là “điển hình”, “nguyên mẫu” (archétype) của những dấu
lạ khác. Cũng như dấu lạ Cana, các dấu lạ tiếp sau đều nhắm “bày tỏ” vinh quang
của Đức Giêsu và khơi lên niềm tin vào Người. Chúng chuẩn bị cho dấu lạ của “ngày thứ ba”, của “Giờ của Đức Giêsu”, nghĩa là cái chết và sự sống lại, được coi vừa
như dấu ấn vừa như đỉnh cao của toàn thể hoạt động cứu chuộc của Người.
- và bày tỏ vinh quang của
Người (11b): Động từ “bày tỏ” (HL. phaneroô; manifester; make
clear/visible, show) cũng là động từ tiêu biểu của từ vựng Ga. Tác giả ưu tiên dùng động từ này để nói về “mạc khải” (x. Ga 1,31; 2,11; 3,21; 7,4; 9,3; 17,6;
21,1; 1 Ga 1,2; 2,19; 3,2; 4,9).
Còn ý nghĩa của từ “vinh quang” (HL. doxa) được rút từ Cựu Ước. Theo nghĩa đen, từ Hípri kabôd hàm chứa một ý tưởng về “trọng lượng” (động từ kabêd: cân nặng). Theo nghĩa bóng, từ
này có nghĩa là “trọng (quan trọng, trọng đại)”, nghĩa là “giá trị”, “tầm quan
trọng” của một hữu thể, “sự tôn kính” mà hữu thể ấy gợi ra; tóm, là “bản tính”,
“bản lĩnh (nhân cách)” của kẻ ấy, dù kẻ ấy là ai.
Thế mà trong truyền thống Cựu Ước, Đức Chúa (Yhwh) mạc khải “vinh quang” của Ngài ra
bằng những biểu lộ bên ngoài của chính bản thân Ngài, nghĩa là xuyên qua “những
việc vĩ đại”, “những việc kỳ diệu” (= phép lạ) được thực hiện trong cuộc Tạo
dựng và trong Lịch sử Dân Ngài (x. Tv
19/18B,2; Ds 14,21.22; Xh 14,18; 16,7; 24,25t; 29,43; 40,34; 1 V 8,10t...). Con người có thể hiểu rõ
hơn Đức Chúa là ai hoặc “vinh quang” của Ngài là thế nào, khi suy nghĩ về sự
tỏa rạng của bản thân Ngài trong công cuộc tạo dựng và trong lịch sử Dân Thiên Chúa tuyển chọn.
Tại Cana, Đức Giêsu làm dấu lạ đầu
tiên như một biểu lộ đầu tiên về “vinh quang” của Người, một khởi đầu cho công
cuộc mạc khải về mầu nhiệm bản thân Người. Các tông đồ có hiểu gì chăng ?
*
Trước Phục Sinh, và chính xác hơn, vào ngay ngày các môn đệ được chứng kiến dấu
lạ Cana, dĩ nhiên các ông không thể hiểu thấu bí mật sâu xa của chân tính Đức
Kitô. Các ông không thể nắm được tính siêu việt của chân tính này. Cứ cho đi là
niềm tin của các ông được khơi lên bởi một
phép lạ–dấu chỉ, thì muốn hợp lý, nên suy ra là cũng như đối với Nathanaen,
niềm tin ấy có đối tượng là tư cách Mêsia của Đức Giêsu (x. Ga 1,47-50; rồi 7,31; 10,41-42;
12,37-42).
*
Sau Phục Sinh, Hội Thánh được soi sáng trọn vẹn về mầu nhiệm Đức Giêsu. Thế là
khi nhớ lại những gì đã xảy ra tại Cana, tác giả Gioan (cũng như toàn thể cộng đồng Kitô hữu) đã hiểu rằng, ngay ở
dấu lạ đầu tiên này, Đức Giêsu đã bắt đầu tự mạc khải ra như “Hôn Phu thần linh
của tiệc cưới thiên sai”, tiệc cưới của Giao Ước mới, trong đó sẽ được chứng
thực “ngày thứ ba” của Phục Sinh, khi “Giờ của Đức Giêsu”đã đến (x. Ga 14,20).
Phụng Vụ lễ Hiển Linh chú giải thật
đúng hình ảnh biểu tượng mang tính ngôn sứ của Cana, khi hát lên Điệp ca của
Thánh ca Benedictus: “Tân Nương là
Giáo Hội, ngày hôm nay được phối hiệp cùng Đức Kitô, vị Lang Quân thống trị
Nước Trời... Nước hóa rượu ngon, làm vui lòng thực khách”.
- Các môn đệ đã tin vào Người
(11c): Trong TM IV, đề tài “đức
tin” là đề tài căn bản. Động từ “tin”
(HL. pisteuô có 3 cách dùng:
-
tin “ai” (HL. pisteuein tini) nghĩa
là chấp nhận lời người ấy là thật: 2,22; 4,21-50; 1 Ga 3,23;
-
tin “vào ai” (HL. pisteuein eis tina)
hàm ý gắn bó với người ấy: 2,11; 3,16.18.36; 4,39;
-
tin “vào danh ai” (HL. pisteuein eis to
onoma tinos): đây là cách diễn tả hoàn hảo nhất về đức tin. Tác giả Gioan
là người duy nhất đã dùng cách này trong Tân
Ước (1,12; 2,23; 3,18; 1 Ga
5,13). Đây là sự gắn bó với một người theo nội dung của tên người ấy. “Tin vào
danh Con Một Thiên Chúa” (Ga 3,18) có
nghĩa là tin vào Đức Kitô trong tư cách là “Con Một Thiên Chúa”.
- Sau đó (meta touto ...)
(12a): Một vài tác giả (J.H. Bernard; A. Feuillet) có lý mà cho rằng, trong
ngôn ngữ Ga, công thức meta touto (= sau việc ấy; après quoi)
có ý nhắm tạo ra một liên hệ lô-gích giữa những gì đi trước và những gì tiếp
sau, y như thể đoạn sau là một hậu quả hoặc một minh họa mới của đoạn trước.
Tác giả đã dùng 4 lần, luôn luôn trong quan hệ với Đức Giêsu (Ga 2,12; 11,7-11; 19,28). Ý nghĩa rất
gần với ý nghĩa của “tauta (hoặc touto) eipôn” (= “khi đã nói những điều ấy xong”; hoặc: “sau khi đã nói
những điều ấy”) (Ga 7,9; 9,6;
11,18.43; 13,21; 18,1; 20,20-22).
Còn thuật ngữ meta tauta (= sau các biến cố ấy) thì khác: nó chỉ đóng vai trò
chuyển mạch về văn chương thôi, một chuyển mạch không xác định, giữa hai đoạn (Ga 3,22; 5,1.14; 6,1; 7,1; 13,7; 19,38; 21,1).
Vậy, tương quan giữa 2,1-11 và 2,12 là
thế nào? Phần tiếp của c. 12 sẽ cho thấy.
- Người cùng với thân mẫu,
anh em và các môn đệ xuống Caphácnaum (12bc): Ở đầu bài
tường thuật, Đức Trinh Nữ Maria ở một bên, Đức Giêsu và các môn đệ ở một bên,
như là hai nhóm đến dự tiệc cưới theo những nẻo đường khác nhau. Nhưng đến cuối
bài, Đức Trinh Nữ, các anh em và các môn đệ Đức Giêsu xuất hiện ra như một nhóm
duy nhất siết chặt quanh Người. Chắc hẳn tác giả muốn nói rằng họ đã xích lại
gần nhau nhờ niềm tin vào Đức Giêsu, mà Đức Trinh Nữ (c. 5) và các môn đệ (c.
11) đã chứng tỏ. Hơn nữa, trên bình diện đức tin, không có khác biệt giữa bà
con họ hàng (thân mẫu và các anh em) và các môn đệ.
4.- Ý nghĩa của bản văn
*
Phần tường thuật (1-3):
Chi tiết thời gian
“ngày thứ ba” đánh dấu tuần lễ khai mạc hoạt động của Đức Giêsu; nhưng chi tiết
này cũng nhắc lại những sự kiện lớn thuộc lịch sử cứu độ xảy ra vào ngày thứ
ba: Đức Chúa tỏ mình ra cho Dân Ngài vào ngày thứ ba trên núi Sinai (Xh 19,10-11; x. 19,16). Nhưng dựa vào Hs 6,2, chi tiết “ngày thứ ba” còn có
liên hệ cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu (“theo lời Kinh Thánh”: Lc 24,46 và 1 Cr 15,4). Có thể nói tác giả Ga minh nhiên thiết lập quan
hệ giữa “ngày thứ ba” và “sự
chết–sự sống lại” của Đức Giêsu (x. 2,19-22). Trong TM IV, công thức “ngày thứ ba”
cũng liên hệ với “Giờ của Đức Giêsu” (x. 2,1-4): đây là kiểu nói để
gọi ba biến cố Khổ Nạn – Chết – Sống Lại của Đấng Cứu thế, coi như một thực tại
duy nhất (x. 2,4; 7,30; 8,20; 13,1...).
“Tại
Cana miền Galilê” (1a và 11a): Đây là một chi tiết địa lý, nhưng hẳn cũng có
một lý do thần học. Những người Pharisêu hỏi Nicôđêmô: “Cả ông nữa, ông cũng là
người Galilê sao? Ông cứ nghiên cứu, rồi sẽ thấy: không một ngôn sứ nào xuất
thân từ Galilê cả!” (7,52). Đấy là điều người ta gọi là “sự mỉa mai thần học của Tin Mừng IV”: Cho đến nay, người ta vẫn cho
rằng không thể có một ngôn sứ xuất thân từ miền Galilê; thế mà, bây giờ tại
Cana miền Galilê, lại xảy ra cuộc tỏ mình đầu tiên của Vị Ngôn sứ siêu đẳng,
Đức Giêsu Nadarét, Đấng được nói đến trong Luật Môsê và các Ngôn sứ (Ga 1,45). Vị Ngôn sứ cánh chung (x. Ga 6,14) xuất thân từ Nadarét, một thôn
làng mà người ta cho rằng không thể có gì tốt phát sinh từ đó được (Ga 1,46).
Theo
tập tục thời ấy, một đám cưới kéo dài từ ba ngày đến một tuần. Thân mẫu Đức
Giêsu có đến dự: tác giả không gọi tên bà ra, tương tự như ở 19,25-27: Rõ ràng
tác giả quan tâm đến vai trò của Đức Trinh Nữ được diễn tả ra bằng các danh
hiệu “thân mẫu Đức Giêsu” và “bà” hơn là đến tên thật của bà. Trong
ngôn ngữ Kinh Thánh – Do Thái giáo,
Dân Israel thường được hình dung như một “phụ nữ” (x. Is 52,2; Dcr 9,9). Do đó,
ta có thể hiểu lý do khiến Đức Giêsu nói với thân mẫu như thế (“Thưa bà”): Đức
Giêsu coi thân mẫu chính là hiện thân Dân Israel đã tới thời viên mãn. Ta có
thể nói rằng từ ngữ “bà” trong TM Ga
tương ứng với hình ảnh “thiếu nữ Sion”
được TM Lc gán cho Đức Maria (Lc 1,28; x. Dcr 2,14).
Tác
giả TM ghi nhận là sự cố đầu tiên
khởi đầu hoạt động công khai của Đức Giêsu là một tiệc cưới. Ngoài việc
ghi lại một sự kiện, hẳn tác giả muốn vận dụng hình ảnh “tiệc cưới” nhằm
nhắc lại giao ước của Thiên Chúa với Dân Ngài, và đặc biệt gợi tới sự thể hiện
cánh chung, khi Thiên Chúa ký kết giao ước với toàn thể nhân loại. Sâu sắc hơn
nữa, hình ảnh lễ cưới nhắc lại giao ước của Đấng Mêsia với Dân Người (x. Hs 2,16-25).
Đang
giữa tiệc cưới thì hết rượu …
*
Các đối thoại (4-8)
(1)
Thân mẫu Đức Giêsu và Đức Giêsu
Thân
mẫu Người nói: “Họ hết rượu rồi” (3). Có lẽ nên thấy đây là một lời thỉnh cầu
kín đáo và tin tưởng Đức Maria bày tỏ với Con. Quả vậy, lời Đức Maria nói với
gia nhân (c. 5) cho thấy rằng bà có xin Đức Giêsu một điều gì đó. Chỉ có điều
là bản văn không đủ rõ để có thể kết luận rằng Đức Maria đã xin một phép lạ (x.
Ga 4,47; 11,3.21-22). Nhưng phải trợ
giúp thế nào thì bà cũng không rõ. Bà không xin rõ ràng một phép lạ. Có lẽ bà
có biết sứ mạng thiên sai của Con mình; nhưng bà có thể chờ đợi phép lạ như
chuyện hết sức tự nhiên chăng? Vả lại, hẳn là quá đáng nếu Đức Maria dám xin
một phép lạ, lại là phép lạ đầu tiên, để chỉ kéo dài một lễ hội trong làng? Có
lẽ ở đây, với tấm lòng vừa đầy sự chú tâm ân cần vừa đầy cảm thương của người
phụ nữ, Đức Maria đã kêu đến Đức Giêsu, mà mơ hồ hy vọng rằng Đức Giêsu sẽ làm
“một điều gì đó”, rằng Người sẽ can thiệp cách nào đó, mà Mẹ cũng chẳng biết
thế nào cả.
Bằng
câu nói “Chuyện đó can gì đến bà và con?” (4), Đức Giêsu từ chối không làm
“phép lạ” mà Người gán cho Thân mẫu là có ý xin. Nhưng Đức Giêsu lại liên kết
điều Thân mẫu xin (cho có rượu) với thuật ngữ “Giờ” khiến độc giả ngờ ngợ là ở
đây có những biểu tượng.
“Giờ”
của Đức Giêsu là Giờ Khổ Nạn–Phục Sinh, là khoảnh khắc tối hậu trong đó Đức
Giêsu tỏ mình ra; còn rượu, theo truyền thống Do Thái giáo và các Giáo Phụ (vd:
thánh Âutinh), tượng trưng cho Lời mạc khải, Tin Mừng của Người, là Luật mới sẽ
được tỏ lộ trọn vẹn khi đến “Giờ” Người đi qua thế gian này mà về với Cha Người
(x. Ga 13,1). Thân mẫu Người nói về
rượu vật chất, còn Đức Giêsu lại nói tới rượu thiêng liêng, biểu tượng của Lời
mạc khải của Người, sẽ được ban trọn khi tới Giờ Khổ Nạn–Phục Sinh. Đức Giêsu
đã chuyển đi từ bình diện các thực tại vật chất sang bình diện những thực tại
thiêng liêng, được tượng trưng bởi những thực tại vật chất (như chẳng hạn, Đền
Thờ: 2,19-22; tái sinh: 3,4; nước: 4,13-14; thức ăn: 4,31-34; bánh: 6,26-27;
giấc ngủ: 11,11-14).
Thân mẫu nói về rượu vật chất, còn Đức
Giêsu lại nói tới rượu thiêng liêng, biểu tượng của Lời mạc khải của Người, sẽ
được ban trọn khi tới Giờ Khổ Nạn–Phục Sinh. Đó là điểm khác biêt giữa Đức
Giêsu và Thân mẫu Người. Nói cách khác, Đức Giêsu đã chuyển đi từ bình diện các
thực tại vật chất sang bình diện những thực tại thiêng liêng, được tượng trưng
bởi những thực tại vật chất. Đây là một đặc điểm của lời Đức Giêsu rao giảng,
mà TM IV minh họa rõ ràng (Đền Thờ: 2,19-22; tái sinh: 3,4; nước:
4,13-14; thức ăn: 4,31-34; bánh: 6,26-27; giấc ngủ: 11,11-14).
Thật ra, tác giả không nói rõ ràng ý
nghĩa của “rượu” (x. ngược lại Ga
2,21; 7,39), nhưng ngài có gợi ý để ta coi “rượu” là biểu tượng của Lời Đức
Kitô, của Mạc khải, của Luật mới mà Đức Giêsu mang lại, của Tin Mừng của Người.
Đây không phải là một cách giải thích
mới. Nhiều Giáo Phụ đã coi “nước” trong các chum ở Cana là hình ảnh của Lề Luật
và các Ngôn sứ, được Đức Giêsu biến đổi bằng Tin Mừng của Người[3].
Thánh Âutinh đã viết: “Đức Kitô đã giữ rượu tốt nhất lại cho đến bây giờ, điều
ấy có nghĩa là Tin Mừng của Người”[4].
Trong số các nhà chú giải hiện đại, Bultmann khẳng định: “Rượu không liên hệ
tới một ơn nào của Đức Kitô nói riêng, nhưng đúng hơn tới ơn là chính Đức
Giêsu, trong toàn vẹn bản thân của Người, tới Đức Giêsu trong tư cách là Đấng
mạc khải...”[5].
Trong thực tế, Cựu Ước, truyền thống Do Thái giáo cũng như chính văn cảnh của TM Ga cung cấp cho chúng ta nhiều
ánh sáng.
Chuỗi
những ngày khai mạc sứ mạng ngôn sứ của Đức Giêsu, là một phương tiện văn
chương để phục vụ một ý tưởng thần học. Cuộc thần hiển ở Sinai và những ngày
trước đó (theo truyền thống Do Thái giáo) là mẫu cho đoạn văn Ga (1,19–2,12). Theo một chiều hướng
Kitô học, tác giả chú giải lại tuần lễ với đỉnh điểm là việc Thiên Chúa ban
Torah tại Sinai, vào “ngày thứ ba”.
“Ngày
thứ ba” của Cana tương ứng hoàn toàn với “ngày thứ ba”của Sinai. Cũng như ở Sinai, Thiên Chúa đã bày tỏ vinh
quang của Ngài khi ban Torah vào “ngày
thứ ba”, thì ở Cana, Đức Giêsu đã bày tỏ vinh quang của Người khi ban một
thứ rượu ngon hơn cũng vào “ngày thứ ba”; rượu này tượng trưng cho sứ điệp
Mạc khải của Người. Động từ “giữ” (“giữ rượu”) cũng là động từ tiêu biểu của
truyền thống Ga khi nói về Lời – Điều
răn của Đức Giêsu. Đàng khác, các chum đựng nước thanh tẩy theo tập tục Do Thái
tượng trưng Luật Môsê bất toàn (chỉ có sáu chum), giờ đây đựng rượu tuyệt hảo,
có thể giải thích đó là Tin Mừng, là Lời của Đức Kitô: Người “thanh tẩy” con
người bằng Lời Sự Thật của Người. Đức Giêsu cho thấy Luật của Người có sự hoàn
hảo khi bảo tôi tớ đổ các chum “đầy tới
miệng” (c. 7).
Tương quan giữa Luật Môsê và Lời Đức
Giêsu được diễn tả tuyệt vời bằng hai loại rượu được dọn tại Cana. Một loại
được tân lang phàm tục dọn, thì vừa bị thiếu (c. 3). Nhưng có một thứ rượu khác
được cống hiến bởi Tân Lang đích thực là Đức Giêsu (x. chú giải cc. 9e-10a).
Thứ rượu ấy, người quản tiệc đã không ngần ngại tuyên bố là “ngon (tốt)” (HL. kalôn), trong khi thứ rượu đầu có một phẩm chất kém hơn (c. 10; HL. to elassô).
Tóm lại, rượu mới Cana, được giữ lại “cho đến mãi bây giờ” (c. 10), là dấu chỉ
cho thấy thời đại thiên sai đã bắt đầu. Tác giả Ga sử dụng 4 lần thuật
ngữ “cho đến bây giờ” (HL. [h]eôs arti; 2,10; 5,17; 16,24; 1 Ga
2,8-9). Bằng kiểu nói ấy, tác giả muốn ám chỉ tất cả các chặng của Lịch sử cứu
độ, là những chặng đi trước và chuẩn bị cho hoạt động của Đức Giêsu. Thời cánh
chung đã đến khi Đức Kitô xuất hiện.
Trong
các lễ cưới nhân loại, rượu ngon được đãi trước. Trong lễ cưới của Thiên Chúa
với Dân Ngài, rượu ngon lại được đãi sau cùng, Đức Giêsu là sự hoàn hảo, là ân
ban tối hậu (x. Ga 4,10).
(2) Thân mẫu Đức Giêsu và các
kẻ hầu bàn
Dù
bị Đức Giêsu từ chối, dù không hiểu các ý định của Con, Mẹ vẫn cứ hoàn toàn ký
thác cho ý muốn của Con và chuyển thông cho những người giúp việc chính lòng
tin của Mẹ đang mở ra với vô định: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (c.
5b). Câu này khiến ta nghĩ đến lời của Pharaô: “Cứ đến với ông Giuse; ông bảo
gì, các ngươi hãy làm theo” (St
41,55). Chúng ta còn nghĩ đến các câu nói của các vị trung gian trong Cựu Ước nói lên lập trường của mình để
mời gọi toàn dân chọn Đức Chúa: Tùy hoàn cảnh, vị trung gian ấy có thể là một
vị ngôn sứ (Er 19,3-8; 24,3-8 [Môsê];
Gr 42-43,4 [Giêrêmia]), một vị vua (2 V 23,1-3 [Giôsigiahu]; 2 Sb 15,9-15 [Axa]), một thủ lãnh (Gs 1; 24,1-28 [Giôsuê]; Nkm 5,1-13 [Nơkhêmia]; 1 Mcb 13,1-9 [Simôn]), một tư tế (Er 10,10-12 [Étra]), một thiên thần (Lc 1,26-28 [Gabriel]). Vị này đóng vai
trò sứ giả giữa Đức Chúa và các anh em mình (Dnl 5,5). Vị này mời gọi chọn lựa, nhưng bắt đầu bằng việc nhận lấy
cho mình những yêu cầu của Đấng mà Người đại diện, để làm gương (x. Gs 24,15; Nkm 5,10). Do bản văn Cana gần với bản văn Sinai, chúng ta thấy
Thân Mẫu Đức Giêsu có vai trò như Môsê (so sánh Ga 1,3-5 với Dnl 5,5), để
rồi tại Sinai, ân ban Lề Luật đã được trao tặng sau khi Dân đã tuyên xưng đức
tin; và tại Cana, ân ban rượu mới (biểu tượng của Luật mới được Đức Giêsu mang
đến) đã được báo trước và tạo cơ hội cho xảy ra nhờ đức tin của Đức Maria được
thông truyền cho các gia nhân.
Bản
văn có một chỗ cắt ngang sau lời khuyên của Đức Maria (“Người bảo gì, các anh
cứ làm theo”), để tháp vào một đoạn mô tả giúp hiểu những gì xảy ra sau đó: “Ở
đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái, mỗi
chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước” (c. 6). Đoạn
văn này cung cấp cho độc giả hai thông tin: a) khối lượng nước khá lớn; b) nghi
thức thanh tẩy của người Do Thái. Với hai thông tin này, độc giả sẵn sàng để
hiểu khá hơn những gì sẽ xảy đến.
(3) Đức Giêsu và các kẻ hầu
bàn
Đức
Giêsu đã bảo những người hầu bàn hai câu: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi” và:
“Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc” (c. 7). Các gia nhân không nói
một lời, họ vâng lời thật chính xác, họ “giữ” đúng các lời Đức Giêsu truyền.
Trước tiên, họ “làm đầy”, đưa đến mức hoàn hảo, những gì còn vơi, những gì chưa
hoàn hảo, trong truyền thống cũ. Kế đó, họ múc nước từ những chum đá (tượng
trưng Luật cũ bất toàn) đưa cho ông quản tiệc để được chứng thực (nước đã hóa
thành rượu hảo hạng). Đấy chính là dấu lạ.
*
Phần tường thuật (9-11)
Khi
nếm nước đã biến thành rượu, “người quản tiệc... không biết rượu từ đâu ra (c. 9c)”, vì ông không “làm” các lời
Đức Giêsu truyền, ông không “giữ” lời Người. Nhưng “còn gia nhân đã múc nước
thì biết” (c. 9d), bởi vì họ đã vâng theo lệnh Đức Kitô, theo lời mời của Đức
Maria (cc. 7-9). Sự vâng phục chính xác của các gia nhân khiến chúng ta nhớ lại
lời Đức Giêsu đã hứa: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ
yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu
mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (14,21; x. 14,23; 12,26).
“Người
quản tiệc mới gọi tân lang lại và nói...”
(cc. 9e-10a): Câu này khiến chúng ta nghĩ rằng có một tân lang khác, tân lang
đích thật, đang chủ trì tiệc cưới: đó là Đức Giêsu. Bởi vì chính Người đã giữ
rượu ngon lại “cho đến mãi bây giờ”. Trong TM
IV (3,25-30), Gioan Tiền Hô giới thiệu Đức Giêsu như là Tân Lang vẫn được
mong đợi, và tuyên bố rằng, khi đối diện với Đức Kitô, vai trò của ông là làm
“bạn của tân lang” (c. 29), người lo mọi công việc chuẩn bị cho lễ cưới (x.
“được sai đi trước”: c. 28; làm chứng cho Đức Giêsu: c. 26; x. 1,31). Nay, Tân
Lang đã đến và có cô dâu (3,29), đó là các môn đệ; còn Gioan thì vui sướng được
nghe tiếng Người (c. 29) rồi rút lui vào bóng tối (c. 30). Xem thêm Kh
19,7-8; 21,2.
Và
tác giả kết luận: “Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này” (c. 11a): Rượu mới ở Cana không chỉ là “dấu lạ đầu tiên”, mà cũng
còn là “điển hình”, “nguyên mẫu” (archétype) của những dấu lạ khác. Cũng như
dấu lạ Cana, các dấu lạ tiếp sau đều nhắm “bày tỏ” vinh quang của Đức Giêsu và
khơi lên niềm tin vào Người. Chúng chuẩn bị cho dấu lạ của “ngày thứ ba”, của “Giờ của Đức Giêsu”, nghĩa là cái chết và sự sống lại, được coi vừa
như dấu ấn vừa như đỉnh cao của toàn thể hoạt động cứu chuộc của Người. “Các
môn đệ đã tin vào Người” (c. 11c), nghĩa là gắn bó với Người ấy, trong khi chờ
đợi một ngày nào đó sẽ tin “vào danh Người”, nghĩa là tin vào Đức Kitô trong tư
cách là “Con Một Thiên Chúa”.
“Sau
đó, Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Caphácnaum và ở lại đó
ít ngày” (c. 12). Câu này là câu
chuyển tiếp [nói về thời gian và không gian] đưa sang đoạn sau.
+
Kết luận
Được
mời đến Cana dự tiệc cưới, Đức Giêsu đã đến trong tư cách người bạn, có các môn
đệ cùng đi theo. Thân mẫu Người cũng được mời dự tiệc. Tại đây, Người đã thực
hiện “dấu lạ đầu tiên”: biến nước thành rượu ngon để cứu chữa một đám cưới. Đối
với tác giả Gioan, người đã viết
trong Lời Tựa của Tin Mừng: “Lúc khởi
đầu đã có Ngôi Lời” (Ga 1,1), thì
“khởi đầu các dấu lạ” này, nghĩa là các việc kỳ diệu có chức năng chứng thực
cho tư cách Mêsia của Người, chính là cách tỏ bày trong thời gian vinh quang
vĩnh cửu của Người. Tác giả ghi lại “dấu lạ” này để chúng ta tin rằng Đức Giêsu
là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa và để chúng ta tin chúng ta có sự sống đời đời nhờ
danh Người (x. Ga 20,30-31).
5.- Gợi ý suy niệm
1.
Rõ ràng là dấu chỉ tiệc cưới, nếu một đàng phong phú ý nghĩa, thì đàng khác
cũng rất dị nghĩa. Tiệc cưới, dấu chỉ tự nhiên của niềm vui và niềm hân hoan,
bị đe dọa bởi nỗi buồn do hết rượu. Giao ước giữa người nam và người nữ tự nó
rất mỏng giòn, và cũng như mọi thực tại dưới ánh mặt trời, nó bị đe dọa bởi bạo
chúa khắc nghiệt là sự chết. Tiệc cưới vẫn là một biểu tượng tích cực: nó gợi
tới tình yêu, sự chung thủy, sự phong nhiêu, sự sống. Nhưng nó cũng bị đe dọa
bởi nỗi buồn, sự thất trung, sự đau khổ. Bản văn Tin Mừng cho chúng ta thấy rằng Đức Kitô ban rượu chan hòa niềm
vui, dấu chỉ của giao ước vĩnh cửu được Người thiết lập. Đức Kitô biến nước của
giao ước cũ, giao ước theo chữ viết, thành rượu ân sủng, rượu Thánh Thần.
2.
Rượu là dấu chỉ của niềm vui của Tin Mừng, của tình yêu, của Thánh Thần, của
sinh lực mới tuôn trào ra từ sức mạnh của Đức Kitô Phục Sinh. Niềm vui sẽ đưa
lễ cưới khỏi nỗi buồn, khỏi sự chán chường do Lề Luật. Và rượu vừa chan hòa vừa
hảo hạng. Đời Kitô hữu khơng bao giờ thiếu rượu là phúc lành của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, có ai trong chúng ta dám nghĩ rằng mình đã sống được ngang tầm với
phúc lành của Thiên Chúa? Ai dám nói rằng tính ích kỷ không bao giờ lấn lướt
tình yêu nơi mình? Ai lại không bị thương tích ngày qua ngày do tội lỗi? Do đó,
sự trung thành là một ơn ta phải hết lòng cầu xin. Chính ân huệ dồi dào Thiên
Chúa ban giúp ta thắng vượt nỗi lo sợ về các giới hạn của đời sống chúng ta.
Chúng ta bị dính cứng vào mặt đất, dễ mệt nhọc, bị đủ thứ sự dữ khống chế,
chúng ta mỏng giòn và dễ bị tổn thương, nhưng niềm tin vào Chúa sẽ chiến thắng
mọi sự dữ và ban cho chúng ta sự sống đời đời.
3.
Có thể nói lời Đức Maria nói với gia nhân ở Cana là “di chúc thiêng liêng của Mẹ” (A. Serra), bởi vì đó là những lời nói
cuối cùng của Mẹ được các tác giả Tin
Mừng ghi lại. Đức Maria sẽ không nói nữa, nhưng Mẹ đã nói được điều chính
yếu. Mẹ đâu có bổn phận mở cửa sổ khi Đức Kitô có vẻ muốn đóng các cửa ra vào!
Trong tư cách là “Mẹ” của Hội Thánh, Mẹ cầu nguyện và chuyển cầu để con cái Mẹ
thường xuyên mở lòng ra với các lời của Chúa Giêsu, những lời vừa nặng ý nghĩa
vừa có sức giải phóng. Đấy là “những lời ban sự sống đời đời” (Ga 6,68).
Hôm nay, chúng ta là những gia nhân
của các đám cưới, chúng ta có khôn ngoan đủ để đón nhận lời Mẹ đề nghị chăng?
4.
Cha M. Thurian (+1996) đã viết: “Đến cuối bài tường thuật, Đức Maria và các môn
đệ làm thành cộng đoàn thiên sai, hợp nhất trong niềm tin vào Con Thiên Chúa
đến biểu lộ vinh quang của Người; đó chính là nòng cốt của Giáo Hội đang vây
quanh Đức Chúa của mình, mà lắng nghe Lời Người và thực hiện ý muốn của Chúa
Cha. Đức Maria hiện diện với cộng đoàn Giáo Hội này và ta có thể tưởng tượng ra
Đức Kitô đang nhìn nhóm vây quanh mình mà nói: ‘Đây là Mẹ tôi và đây là anh em
tôi; bất cứ ai thực hiện ý muốn của Cha tôi trên trời, thì người ấy là một
người anh em, một người chị em, và một người mẹ đối với tôi’ (x. Mt 12,49 và các bản văn song song)”[6].
Lm FX Vũ Phan Long, ofm
[1] X. P. Grelot - J. Giblet, “Giao Ước”, trong VTB,
X. LÉon-Dufour, cột 28-38; “Tình yêu”, do C. Wiéner, cột 45-56)
[2] In Johannis Evangelium, Tractatus CXXIV, 9, 2, (PL 35, 1459).
[3] X. H. de Lubac, Exégèse médiévale, 344-346.
[4] In Johannis Evangelium, Tractatus CXXIV 9,2 (PL 35, 1459).
[5] The Gospel of John, 120.
[6] Marie Mère
du Seigneur , 190-232.