ĐỨc Giêsu
và vỊ tông đỒ đẦu tiên
(Luca 5,1-11 – CN V TN - C)
1.- Ngữ cảnh
Với bài Lc 5,1-11, chúng ta có một bản văn riêng của tác giả Luca. Như thế, bản văn này có thể giúp
độc giả nhận biết cách thức bản văn này tiếp cận với truyền thống Tin Mừng và liên
kết với truyền thống ấy.
Quả thật, nếu trong tất cả ch. 5, tác
giả đi theo bài tường thuật của Mc
(x. 1,40–2,22), ở đây ngài lại tách ra. Trong khi tác giả Mc (1,16-20), và cả Mt
(4,18-22), mô tả truyện kêu gọi các môn đệ đầu tiên trước sứ vụ công khai của
Đức Giêsu, tác giả Lc lại đặt tiếng
gọi ở sau, khi Đức Giêsu đã bắt đầu hoạt động giảng dạy và chữa lành (x.
4,14-44). Người đã biết ông Simôn, vì đã đến nhà ông và chữa là bà mẹ vợ
(4,38-39).
Bài
tường thuật này là một đơn vị riêng, đến sau bức tranh bộ đôi
Nadarét-Caphácnaum (4,14-44), được đóng khung bởi hai toát yếu về sứ vụ rao
giảng nay đây mai đó của Đức Giêsu (4,14; 4,44), và được nối tiếp bởi một giai
thoại mới, việc chữa lành một người phong hủi (5,12-16).
Đoạn
văn của chúng ta thuộc về một phân đoạn lớn hơn (5,1–6,19), trong đó có những
đơn vị được dẫn nhập bởi công thức mà các bản dịch thường bỏ, “xảy ra là” (egeneto: 5,1.12.17; 6,1.6.12), với trung
tâm là việc kêu gọi Lêvi và bữa ăn ông thết đãi (5,27-39).
Trong
phân đoạn này, chân trời của sứ vụ của Đức Giêsu được mở rộng. Cho tới nay,
Người hoạt động một mình, qua việc giảng dạy và chữa bệnh (các môn đệ đầu tiên
vẫn còn đang ở trong tình trạng vô danh). Bây giờ cử tọa đang mở rộng ra hơn;
Đức Giêsu không chỉ nói với những người hay lui tới hội đường mà thôi, nhưng
với một đám đông sẵn sàng lắng nghe. Nhất là nay phát sinh nhóm các môn đệ, họ
đi theo Người trong hành trình truyền giáo; bên trong nhóm này nổi lên khối sẽ
là hạt nhân căn bản của Hội Thánh, đó là nhóm các Tông Đồ. Chính là trong ngữ
cảnh này mà chúng ta đọc bài tường thuật Mẻ cá lạ lùng với việc kêu gọi Simôn
và các bạn.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Giới thiệu khung cảnh và công việc
của Đức Giêsu (5,1-3);
2) Đức Giêsu - Phản ứng của Simôn
trước mẻ cá (5,4-7);
3) Phản ứng của Simôn sau mẻ cá - Đức Giêsu (5,8-10);
4) Kết luận: Đời môn đệ (5,11).
3.- Vài điểm chú giải
-
Ghennêxarét (1): Đây là tên Hy Lạp của giải đất nhỏ thuộc phía tây “biển
hồ”, có đất đai mầu mỡ và đông dân cư; giải đất này ở phía nam Caphácnaum.
- lời
Thiên Chúa (1): Đây là lần đầu tiên Tin
Mừng Lc dùng công thức này (Lc
dùng 4 lần: 5,1; 8,11.21; 11,28; Cv
dùng 14 lần: 4,31; 6,2.7; 8,14; 11,1; 12,24 (?); 13,5.7.44.46.48; 16,32; 17,13;
18,11). Trong khung cảnh sách Cv,
công thức ấy có nghĩa là sứ điệp Kitô giáo do các tông đồ rao giảng; ở đây tác
giả Lc lại cho thấy là Đức Giêsu rao
giảng. Như thế, tác giả đặt việc rao giảng của cộng đoàn trên nền tảng là lời
rao giảng của Đức Giêsu. Nhưng nền móng tối hậu là chính Thiên Chúa, bởi vì
công thức nói rõ là “Lời Thiên Chúa” hoặc “Lời do Thiên Chúa ban” (thuộc-cách
diễn tả chủ từ hoặc tác giả, hợp lý hơn là “lời nói về Thiên Chúa”: thuộc-cách
diễn tả đối tượng).
-
Người ngồi xuống (3): Đây là tư thế bình thường khi ở trên một chiếc
thuyền nhỏ. Nhưng hẳn tác giả cũng muốn gợi ra tư thế của một vị thầy.
-
Thưa Thầy (5): Lần đầu tiên Lc
dùng từ epistata (hô-cách của epistatês) (x. 8,24.45; 9,33.49;
17,13). Các bản văn Nhất Lãm song
song dùng từ didaskale, “thưa thầy”, hoặc rabbi, “thưa rabbi”.
Trong văn chương Hy Lạp, từ ngữ epistatês thường có sắc thái rộng hơn,
đó là “vị chỉ huy, vị điều hành, vị giám sát” (ví dụ trong việc huấn luyện giới
trẻ). Trong các tác phẩm Lc, từ này
luôn luôn được đặt trên môi miệng các môn đệ, còn từ didaskalos được
người ngoài dùng. Epistatês diễn tả một đức tin sâu xa hơn vào uy
quyền của Đức Giêsu.
-
chúng tôi đã vất vả (5): Động từ kopiaô, “làm việc vất vả”, là một động
từ được Tân Ước dùng cho những dịp mô
tả công việc tông đồ vất vả.
- Xin
tránh xa con (8): Qua mẻ lưới lạ thường, Simôn nhận ra Thiên Chúa đang tỏ
mình ra nơi Đức Giêsu, do đó ông đã gọi Người là “Chúa”. Từ đó, ông cũng ý thức
về tình trạng tội lỗi, bất xứng của mình; ông cảm thấy sợ hãi khi đứng trước
Thiên Chúa là Đấng Thánh (x. Is 6,5).
Simôn vừa bị thu hút về phía Đức Giêsu do lòng thán phục, vừa muốn tránh xa
Người do ý thức về sự bất xứng của mình.
- Anh
sẽ là kẻ đi bắt người ta (10): So với Mc
1,17, câu nói này không nhấn mạnh đến thân thế môn đệ, nhưng nhấn mạnh đến hoạt
động truyền giáo. Zôgreô (do zôos, “sống động”; agreô,
“bắt”) có nghĩa là “bắt để làm cho sống”. So với Mc 1,17, bản văn nhấn mạnh trên hoạt động truyền giáo hơn là trên
thân phận người môn đệ.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Các
tác giả còn tranh luận xem bản văn này thuộc thể văn nào: bài tường thuật ơn
gọi, bài tường thuật về sự giao phó nhiệm vụ, tiên tri và lời hứa… Thật ra, đề
tài ơn gọi chắc chắn có trong bản văn, nhưng dưới dạng một lời hứa và một lời
tiên tri. Quả thế, chính lời hứa long trọng của Đức Giêsu nổi bật rõ nhất (“Đừng
sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta”).
Điều đánh động trong bài
tường thuật chính là sự xen kẽ giữa số đơn và số phức. Ngay từ đầu, độc giả
chuyển từ “đám đông” (ochlon) của c.
1 sang “các đám đông” (ochlous) ở c.
3. Tại c. 4, Đức Giêsu nói với Simôn: “Chèo ra chỗ nước sâu (epanagage [số đơn] eis to bathos) mà thả lưới bắt cá (kai chalasate [số phức] ta
diktya hymôn eis agran); như thế, không phải chỉ có một mình Simôn ở trên
thuyền. Sang c. 5, câu trả lời của Simôn lúc đầu khẳng định: “Chúng tôi đã vất
vả (poiasantes)…”, nhưng rồi: “Nhưng
vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới (chalasô)”.
Và nếu ở c. 8, Simôn xin Đức Giêsu: “Xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”,
lý do lại là vì Simôn, những người có mặt ở đó, và cả Giacôbê và Gioan cũng
kinh ngạc (cc. 9-10). Cuối cùng, Đức Giêsu nói với riêng Simôn: “Đừng sợ, từ
nay anh sẽ là người thu phục người ta” (c. 10), nhưng ngay sau đó các bạn của
Simôn lại xuất hiện: “Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo
Người” (c. 11).
Sự xen kẽ giữa Simôn và các bạn không chỉ
gợi ý là mẻ cá cần nhiều người, mà còn nêu bật rằng Simôn, ngoài nhân cách độc
đáo của ông, cũng đại diện cho một nhóm, nhóm các ngư dân sẽ bỏ mọi sự để trở
thành môn đệ của Đức Giêsu.
Một
nét khác trong bài tường thuật là cách vận dụng “khoảng cách” giữa các nhân vật
khác nhau, để đưa lại cho mỗi nhân vật một nét độc đáo riêng. Đám đông quy tụ
quanh Đức Giêsu để nghe Lời, nhưng Người lại lên thuyền của Simôn và bảo ông ra
xa bờ một chút. Một cách nghịch lý, việc lấy khoảng cách như thế lại đưa Đức
Giêsu đến gần các đám đông hơn, bởi vì do quá gần, việc loan báo Lời lại bị cản
trở, và cũng đưa Người đến gần Simôn và các bạn hơn, bởi vì các ông đang ở trên
thuyền với Thầy, nên cũng trở thành thính giả nghe Lời. Bằng cách đó, Đức Giêsu
vừa có thể ngỏ lời với người ở gần lẫn người ở xa.
Việc
lấy khoảng cách vẫn tiếp tục. Trước tiên lệnh của Đức Giêsu cho Simôn (“Chèo ra
chỗ sâu”, epanagage eis to bathos)
vừa giữ khoảnh cách chiều ngang với đám đông, vừa bắt đầu một chuyển động theo
chiều đứng, một chiều hướng đầy xuống thấp và dấn dần kéo cả Simôn vào. Lệnh
của Đức Giêsu theo nghĩa chữ là: “Đi ra xa, vào chỗ (nước) sâu”; đây không chỉ
là đi ra xa hơn, mà còn là đi vào chiều sâu của cái hồ! Một vài động từ xác
nhận chiều hướng biểu tượng này: “Các anh hãy thả lưới” (c. 4), “tôi sẽ thả
lưới” (c. 5), “hầu như rách cả lưới” (c. 6), “đến gần chìm” (c. 7). Đây không
chỉ là một chuyển động thể lý, gắn liền với việc đánh cá, vì chính cử chỉ và
lời nói sau cùng của Simôn cho thấy: ông phục xuống dưới chân Đức Giêsu và nói:
“Xin tránh xa con…”. Vấn đề là tương quan với Đức Giêsu, là gắn bó với Người
hay tránh xa Người.
Tới
cuối bài tường thuật, nhờ lời hứa của Đức Giêsu, khoảng cách đáng sợ giữa Đức
Giêsu và Simôn được điều chỉnh lại và khoảng cách với đám đông cũng được xóa
đi, bởi vì Simôn Phêrô và các bạn đã kéo thuyền vào bờ, nơi có đám đông, và đi
theo Đức Giêsu.
Như
vậy, qua biện chứng “cách xa”, chủ đề của bài tường thuật là việc kêu gọi Simôn
và các bạn, việc kêu gọi này có nghĩa chính xác là đến gần Đức Giêsu, bằng cách
lấp đầy các khoảng cách ngăn cách với Người. Vậy đây là hành trình đức tin.
Nhưng điều này không chỉ liên hệ đến các môn đệ, mà còn liên hệ đến tất cả các
thính giả hoặc độc giả Tin Mừng tương lai; chính vì thế mà có sự xen kẽ số đơn
và số phức. Chúng ta sẽ thấy bản văn trình bày diễn tiến của hành trình đức
tin.
*
Giới thiệu khung cảnh và công việc của Đức Giêsu (1-3)
Sau
thất bại ở Nadarét (4,16-30), Đức Giêsu vẫn có những người sẵn sàng lắng nghe,
chính đám đông “chen chúc” (epikesthai)
bên bờ hồ Ghennêxarét đã chứng tỏ điều đó. Chúng ta ghi nhận: không phải là họ
tìm nghe lời một người phàm, nhưng nghe “lời Thiên Chúa”. Một ghi nhận kế tiếp:
Đức Giêsu không rao giảng trong hội đường nữa. Đây là một biểu tượng: kể từ
nay, nơi duy nhất chúng ta có thể nghe được lời của Thầy chí thánh chính là
cộng đoàn Kitô hữu; đây là nơi mà tất cả những ai đi tìm ánh sáng, sự an ủi và
niềm hy vọng đều phải đến. Trên con thuyền này, chỉ có Đức Giêsu là thánh
thiện, còn những người khác thì tốt lành, nhưng đều là những “kẻ tội lỗi”. Dù
vậy, cũng chính là từ con thuyền này mà Lời Chúa được công bố.
Đức
Giêsu mau chóng chỉ định các cộng sự viên. Truyện hôm nay cho thấy bản chất của
tương quan giữa Người và các ông này. Ở đây mọi sự đều do sáng kiến của Người
và được nhắm đưa tới kinh nghiệm như Simôn sẽ có. Tuy vậy, bản văn cho thấy Đức
Giêsu chỉ tỏ ra năng động có hai lần thôi: lần đầu khi Người ra lệnh (c. 4) và
lần thứ hai khi Người ban một lời hứa (c. 10); còn ở giữa là hành động
và phản ứng của Simôn và các bạn. Simôn cũng có hai câu nói thưa với Đức Giêsu:
một câu là khẳng định về kinh nghiệm đánh cá (c. 5), một câu là lời mời
(c. 8). Chính do quảng đại mà Simôn đã hỗ trợ cho việc loan báo Lời. Trong giai
thoại chữa bà mẹ vợ (4,38-39), Simôn là một nhân vật chìm: không nói không làm
gì cả! Còn ở đây, nổi bật lòng quảng đại và sự sẵn sàng của ông, khiến ông trở
thành một thính giả ưu tiên của Lời.
* Đức
Giêsu - Phản ứng của Simôn trước mẻ cá (4-7)
Việc lắng nghe Lời không tự động đưa
tới đức tin. Để cho việc lắng nghe này là thật, thì cần có việc tận tình đáp
trả những yêu cầu của Lời. Nói xong với đám đông, Đức Giêsu ban một lệnh
trực tiếp cho một người, ngay giữa lòng cuộc sống cụ thể của người ấy (c. 4):
“Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá” (c. 4). Simôn đã phản ứng, ông khẳng
định theo kinh nghiệm của ông: người ta bắt cá ban đêm; thế mà suốt đêm các ông
đã vất vả (kopiasantes) mà chẳng bắt được gì, phương chi bây giờ là ban
ngày! Lệnh này có vẻ như một sự gây chuyện! Tuy nhiên, Đức Giêsu không hề nêu
lý do hoặc thêm ý soi sáng; Người nói một lời và cho thấy mọi sự tùy
thuộc lời này. Đối với Simôn, Đức Giêsu không phải là một người xa lạ. Ông đã
thấy Người chữa lành nhạc mẫu của ông (4,38-39). Do đó, ông tín nhiệm vào lời
Đức Giêsu cho dù lời này có yêu cầu những điều bề ngoài không mong đạt kết quả,
hoặc những điều phi lý vì đi ngược lại mọi kinh nghiệm của loài người. “Thưa
Thầy, … dựa vào lời Thầy”, epistata,
… epi de tô rhêmati sou (c. 5):
Những từ ngữ này hết sức quan trọng, vì đây là công thức diễn tả thái độ của
con người đối với Thiên Chúa (x. Tv
119, 25b.42.57.105). Epistatês theo
nghĩa chữ là “người ở trên”, “người chủ tọa”. Simôn nhận biết Đức Giêsu là
người dẫn đường, Người không chỉ là một thầy dạy, mà là một chủ nhân đời
sống!
Điều
chúng ta ghi nhận ở đây là chính Simôn đã đưa thuyền ra khơi (c. 4); chính ông
công bố niềm tin vào lời Đức Giêsu (c. 5); chính ông gọi Người là “Lạy Chúa”
(c. 8); ông là người được mời trở thành “kẻ lưới người” (c. 10). Tất cả các yếu
tố này cho thấy rằng Simôn được chọn cho một thừa tác vụ đặc biệt trong Hội
Thánh. Nhiệm vụ của ông là nghe lời Chúa và di chuyển, không phải ra nơi mà
kinh nghiệm dẫn đưa ông, nhưng nơi mà Thầy muốn ông đến.
Và để chứng minh là người ta có thể
tin vào lời Đức Giêsu, các ông đã kéo được mẻ cá quá sức phong phú. Lưới gần bị
rách. Cả hai thuyền đều đầy cá, nặng đến nỗi gần chìm. Kết quả này không do tài
năng của Simôn, nhưng do lời của Đức Giêsu. Simôn cần trợ giúp; ông ra hiệu cho
các bạn chài ở thuyền kia đến giúp (c. 7). Nay ta biết tên họ là Giacôbê và
Gioan, con ông Dêbêđê. Các ông này được gọi là “bạn” (koinônoi) của Simôn (c. 10). Koinônos
không chỉ là bạn cùng nghề nghiệp; các tác giả Tân Ước dùng từ ngữ này để chỉ
những tín hữu hiệp thông với nhau (x. Cv
2,42.44; 4,32; Rm 12,13; 15,26.27;
…).
*
Phản ứng của Simôn sau mẻ cá - Đức Giêsu
(8-10)
Tức khắc, Simôn nhận ra Đức Giêsu là
ai và chính ông là ai: kinh ngạc sợ hãi. Ông thưa với Đức Giêsu như là “Chúa
tể”, là điều mà trước đây các mục đồng đã được loan báo: Đấng Cứu thế, Đức
Kitô, Đức Chúa (2,11). Simôn đã trải nghiệm quyền năng thực thụ của vị Chúa tể
này. Do đó, bây giờ không những ông biết ông không ở trên cùng một bình
diện với Người, mà còn biết rằng đối diện với Người, ông là một kẻ tội
lỗi. Đứng trước quyền năng và sự thánh thiện của Thiên Chúa, con người cảm thấy
có nhiều điều trong đời mình không coi được. Kinh nghiệm về Đức Chúa cho thấy
nơi Phêrô có nhiều chuyện sai lạc, đi ngược lại với Người và làm cho ông nên
bất xứng và không trong sạch. Ông thấy giải pháp cho hoàn cảnh không thể chịu
nổi này là Chúa xa ông đi: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”
(c. 8). Việc Simôn quỳ phục xuống, gọi Đức Giêsu là “Chúa” (kyrios), lời nói về thân phận bất xứng,
cho thấy ông đang gặp Thiên Chúa, một kinh nghiệm về thần hiển như trong trường
hợp Môsê (Xh 3,6) và Isaia (x. Is 6,5). Ở đây, y như thể Simôn muốn nói
rằng: Chúa tránh xa con, để như thế con lại có thể chịu nổi con và lại có sự
bình an bề ngoài của con. Nhưng chắc chắn cách xử sự của Đức Giêsu không phải
là tránh xa những người tội lỗi và bỏ mặc họ trong tội lỗi và với số phận của
họ (x. 5,32). Ý thức của Simôn hoàn toàn đúng, nhưng giải pháp ông đề ra không
được Đức Giêsu chấp nhận: Người không tránh xa ông, Người cũng không đẩy ông xa
Người, nhưng nhận lấy ông, đưa ông vào phục vụ chương trình của Người. Chính
Simôn, người đã nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con!”, lại sẽ đi theo Đức Giêsu
cùng với các bạn (5,11).
Ở đây lần đầu tiên và lần duy nhất,
bên cạnh tên Simôn quen thuộc, có tên Phêrô: phải chăng đây là một gợi ý kín
đáo về sự phản bội của Phêrô trong tương lai? Trong thực tế, việc nhận biết
thân phận tội lỗi của mình, trước khi đươc kêu gọi, chứng tỏ sứ vụ của Phêrô
không dựa trên các đức tính của ông, nhưng hoàn toàn dựa trên sự ban tặng
nhưng-không của Thiên Chúa.
Đức
Giêsu tỏ ra rất tế nhị với Simôn. Người không nhận định gì về tình trạng tâm
hồn của ông, Người không khuyến cáo; trái lại Người để cho ông làm một hành
vi đức tin. Kết quả là Simôn nhận ra sự cao cả, sự tốt lành và quyền lực của
Đức Giêsu, nên ông đã dễ dàng, như theo bản năng, từ bỏ các tội lỗi của ông.
Khi đó, ông trở nên hoàn toàn tự do, ông có thể hiểu lời mời gọi của Người. Lời
mở đầu: “Đừng sợ!” chứng tỏ sự can thiệp của Đức Giêsu mang màu sắc một cuộc
thần hiển thực thụ. Lời hứa của Đức Giêsu: “Từ nay, anh sẽ là người thu phục
người ta như bắt cá” (NTT: “sẽ là kẻ chài lưới bắt người”) được thêm vào kinh
nghiệm mà Simôn đã có về tính vững chãi của lời Đức Giêsu nói. Simôn nhận biết
Đức Giêsu như là Đấng muốn người ta đón tiếp Tin Mừng. Trong một cách
thức chưa rõ mấy, Đức Giêsu cho ông hiểu rằng ông phải tham gia vào lối hành
động này, nhưng luôn dựa vào quyền lực của Người.
* Kết
luận: Đời môn đệ (11)
Simôn và các ông khác, tức Giacôbê và
Gioan, “đã bỏ hết mọi sự mà theo Người”. Từ nay, Simôn và tất cả các môn
đệ phải nhận biết rằng việc phục vụ mà Đức Giêsu đưa các ông vào dựa trên không
phải là các đức tính, các năng khiếu cá nhân, nhưng dựa trên Lời của Người. Hai
động từ “bỏ” và “theo” mô tả sứ mạng của người môn đệ. Nằm tại trung tâm cuộc
sống của các ông, không phải là một giáo thuyết, nhưng là một con người và một
dự phóng đời sống. Tiếng gọi này phát sinh không từ một mệnh lệnh, nhưng từ
kinh nghiệm về một Lời mạnh mẽ và hữu hiệu, có thể không những tạo ra một mẻ cá
dồi dào lạ lùng, nhưng còn gây nên một tiếng “xin vâng” cho trọn một cuộc đời.
+ Kết
luận
Simôn
đã hiểu thi hành một nhiệm vụ Đức Giêsu giao nghĩa là gì. Ông cũng trải
nghiệm về bản thân ông là ai khi đứng trước Đức Giêsu. Như thế, ông cũng hiểu
ra rằng, khi đứng trước một lời hứa của Đức Giêsu, tất cả các khả năng
con người, dù có hạn hẹp, cũng như những cơ may thành công, dù có mong manh,
cũng không còn đáng bận tâm nữa. Bài tường thuật phép lạ trước tiên là một biểu
tượng về sự phong nhiêu của Lời Chúa.
Đây
là một sự đảo lộn hoàn cảnh nguyên thủy. Lúc đầu, Simôn, có phần tự hào
về bản thân, đã trở thành một người có khả năng nhảy một bước
trong đức tin. Từ đó, ông cũng nhận ra được sự nghèo hèn của mình; do đó ông nên
khiêm tốn để sống đức tin chan hòa. Chỉ nhờ kinh nghiệm về quyền năng của Thiên
Chúa như thế, người môn đệ mới được đào tạo.
Sứ
mạng được ký thác cho toàn thể cộng đoàn Kitô hữu, để cho thấy rằng có thể có
một tập thể hoàn toàn đặt nền tảng trên sự tha thứ, việc chia sẻ của cải, việc
phục vụ lẫn nhau, tôn trọng những người khác. Các Kitô hữu sẽ phải luôn luôn tự
hỏi những người khác đang trông chờ mình đưa lại cho họ thứ “ơn cứu độ” nào,
mình có thể phục vụ họ tốt nhất cách nào, mình đang lo tìm cứu độ từng con
người hay chỉ bảo vệ một cơ cấu.
5.- Gợi ý suy niệm
1.
Hoạt động tông đồ không thể dựa trên khả năng của các tông đồ hoặc trên thiện
chí của những người mà các ngài được cử đến gặp, nhưng chỉ dựa trên trách nhiệm
được giao và quyền năng của Chúa. Người ta chỉ có thể đảm nhận công việc ấy
“theo lời Người”. Simôn có thể trải nghiệm quyền năng và giá trị của lời Đức
Giêsu và phải trải nghiệm về sự giới hạn yếu đuối của bản thân ông. Đồng thời
ông cũng trải nghiệm được sự hạ cố nhân ái của vị Chúa tể quyền năng, đã đưa
ông vào phục vụ Người. Việc phục vụ này mãi mãi được liên kết với các kinh
nghiệm cơ bản này.
2.
Các mục tử hôm nay lại không nhận ra bài học cho mình sao? Quyền lãnh đạo của
họ trên cộng đoàn Kitô hữu không phải là để họ áp đặt ý muốn của mình, nhưng là
để giúp nhận ra ý muốn của Đức Giêsu. Họ có nhận ra tiếng nói của Thầy chí
thánh và phân biệt tiếng nói này giữa các cảm xúc, các trực giác và các ý tưởng
của họ chăng?
3.
Người ta không thể trách Simôn về sự kiện ông là kẻ tội lỗi. Chính ông đã biết
rồi, và ông sẽ trải nghiệm về điều này cách cay đắng (Lc 22,33t.54-60). Nhưng Đức Giêsu đã đưa kẻ tội lỗi ấy vào phục vụ
Người, đã cầu nguyện cho ông (22,31t), đã nhìn ông với ánh mắt nhân hậu
(22.61t). Như thế, Simôn có thể chu toàn nhiệm vụ, mà không bao giờ cậy dựa vào
các sức mạnh của mình, nhưng tín thác vào Lời Chúa.
4.
Khi biết nhìn đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với chúng ta, quyền năng
cũng như lòng tốt của Ngài, chúng ta mới nhận ra sự nghèo nàn và cần ơn cứu độ
của chúng ta. Simôn đã nhân ra điều đó, ông không sợ hãi gì nữa; cho dù kẻ khác
có nghĩ ông là một kẻ tội lỗi, điều này cũng quan hệ gì. Ông đã bước
được một bước quyết liệt trong việc giải phóng bên trong. Đức Giêsu đã
đào tạo môn đệ bằng phương tiện là những bước nhảy trong đức tin và bằng cách
làm cho người ấy biết quyền lực thần linh của Người. Con thuyền của Phêrô chính
là Hội Thánh. Đức Giêsu vẫn tiếp tục dạy chúng ta trên chiếc thuyền này, dọc
theo dòng các cuộc cử hành Phụng vụ, và nhất là trong Bí Tích Thánh Thể.
5.
Chính Thiên Chúa ban ơn gọi cho loài người. Mọi người phải bỏ mọi sự mà đáp trả
quảng đại. Như thế là thực hiện một bước điên rồ, nhưng chính bước điên rồ này
làm nên con người. Simôn đã thực hiện sự từ bỏ này khi thả lưới trái với kinh
nghiệm thông thường, rồi sau đó, khi bỏ mọi sự mà bước theo Đức Giêsu. Nhờ dám
“đánh liều cuộc đời”, Simôn trở thành người mà Thiên Chúa nhắm khi cho ông xuất
hiện trong cuộc đời. Trong gia đình Kitô hữu, giáo dục con cái biết sống quảng
đại là cách thức tốt nhất để chuẩn bị cho con cái sống quảng đại, để nhờ đó,
chúng thực hiện được chương trình của Thiên Chúa.
6. Ngư phủ Phêrô sẽ có một
thị kiến giống ngôn sứ Isaia: ông sẽ được thấy một điều đáng kinh ngạc. Thị
kiến và ơn gọi của Phêrô đến từ lời nói của Đức Giêsu và kết quả của Lời ấy là
một mẻ lưới đầy cá. Phêrô sẽ làm như Isaia và Giêrêmia khi các ông nghe được
tiếng mời gọi. Ông trở nên sợ hãi trước Đấng phán ra lời có thể làm cho lưới
đầy cá. Ông nhận thấy sự hiện diện phi thường và sức mạnh thánh thiêng của Đức
Giêsu và thấy mình bất xứng. Đức Giêsu lại lên tiếng một lần nữa: Người mời gọi
Phêrô hãy đánh cá kiểu mới. Từ nay trở đi, ông sẽ rời mắt khỏi lòng biển, luồng
gió và thời tiết để quan tâm đến những người ông sẽ gặp gỡ và sẽ thấy những cơ
hội để mang về cho Đức Giêsu nhiều môn đệ hơn nữa. Ơn gọi của Phêrô không làm
cho ông bớt bất xứng, nhưng nếu ông chú tâm lắng tai nghe lời của Đấng đang mời
gọi ông, ông sẽ trở thành kẻ “thu phục người ta cho Chúa” (Siciliano).
Lm FX Vũ Phan Long, ofm