con trai bà
góa Nain sỐng lại
(Luca 7,11-17 – CN X TN - C)
1.- Ngữ cảnh
Sau bài diễn từ “trong đồng bằng”, Đức
Giêsu đi vào Caphácnaum. Tại đây Người chữa lành một người nô lệ sắp
chết (7,1-10). Do đó, ta có thể thấy có một sự tiến triển từ truyện ấy đến
truyện đọc hôm nay: ở 7,1-10, ta ghi nhận là tại Caphácnaum, Đức Giêsu chữa
lành một người nô lệ “gần chết”; ở 7,11-17, tại Nain, Đức Giêsu cho một thanh niên, con một bà
góa, đã chết, được “trỗi dậy”.
Hai dấu chỉ này lại không tách biệt
với những gì đến sau: trong câu trả lời cho những người được Gioan cử đến, Đức
Giêsu gửi họ trở lại với những phép lạ cho người chết sống lại (7,22). Như vậy,
chức năng của hai truyện Caphácnaum và Nain đã rõ: tác giả dùng để chuẩn bị cho
câu hỏi về chân tính của Đức Giêsu và câu trả lời của chính Người. Nhờ hai hành
vi quyền lực này cũng như những cuộc chữa lành khác (x. 7,21), Đức Giêsu có thể
nói: anh em cứ nhìn xem những gì tôi đã làm! Nhưng nếu người ta có thể nhận
biết Người là bởi vì các phép lạ đáp lại một sự chờ đợi được gợi lên bởi
một lời hứa: trong câu trả lời, Đức Giêsu nhắc lại bản văn Isaia đã đọc tại hội đường Nadarét, cũng
như những bản văn khác (x. Is 26,19;
29,18; 35,5-6; 61,1), để nói lại lần nữa rằng trong tất cả những chuyện này,
phải thấy là các lời ngôn sứ được ứng nghiệm. Đàng khác, nếu rảo qua tất cả các
xen nằm trong Lc 7,1–7,49, ta thấy rõ
toàn khối có tính thống nhất: từ đầu cho đến cuối chương 7 này, đề tài là tư
cách ngôn sứ của Đức Giêsu và những dấu chỉ cho phép nhận ra Người. Để thấy
được diểm này, ta có thể so sánh Lc 7,1-10 // 7,11-17; 7,18-23 // 7,24-28;
7,29-35 // 7,36-49.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Giới thiệu các nhân vật (7,11-12);
2) Hành động của Đức Giêsu (7,13-15);
3) Phản ứng của dân chúng: ca ngợi và phổ
biến (7,16-17).
3.- Vài điểm chú giải
-
Nain (11): Một thành ở về phía nam Galilê, chỉ được nhắc đến ở đây
trong Kinh Thánh. Thành ở không xa Enđo về phía tây bắc của Nêbi Đahi, một quả
đồi ở giữa Ghinbôa và núi Tabo, cách Nadarét về phía tây nam vài dặm.
- Bà
đừng khóc nữa (13): Dạng mệnh lệnh hiện tại có nghĩa là “Bà đừng tiếp tục
khóc nữa!”. Đức Giêsu không ngăn cản nỗi đau của một người mẹ, nhưng
khuyên bà như thế là nhắm đến hành vi Người sắp làm.
-
ngôn sứ (16): Hẳn là sự kiện này nhắc nhớ đến sự việc ngôn sứ Êlia cho
người con một của bà góa Sarépta sống lại. Có thể so sánh 1 V 17,20 // Lc 7,12; 1 V 17,17.20 // Lc 7,12; 1 V 17,22 // Lc 7,15; 1 V 17,23 // Lc 7,15; 1 V 17,24 // Lc 7,16. Sau này chính tác giả Lc
cho thấy đám đông coi Đức Giêsu là Êlia của thời cuối cùng (9,18).
-
Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người (16): Câu này nhắc lại minh
nhiên câu mở đầu và câu kết của bài Benedictus (1,68.78). Có lẽ tác giả
thấy trong cả hai trường hợp, có việc
ban tặng một người con: cho Dacaria và Êlisabét đã lâu vẫn xin có được
một con trai, và cho bà góa vừa mất đứa con một.
4.- Ý nghĩa của bản văn
*
Giới thiệu các nhân vật (11-12)
Bài tường thuật bắt đầu với việc giới
thiệu các nhân vật qua hai bước (= hai thì). Câu 11 cho thấy Đức Giêsu đang
tiến về một thành gọi là Nain, có các môn đệ và một đám đông cùng
đi với Người. Còn c. 12 thì kể rằng khi Đức Giêsu đến cửa thành thì gặp một người
chết là con trai một, được đưa đi chôn, mẹ của anh là một bà góa, và một
đám đông đáng kể của thành đi với bà.
Chúng ta ghi nhận sự song đối: có hai
đám đông, nhưng đi theo hai hướng đối ngược. Đây là hai nhóm người không có gì
chung cả: những người thuộc nhóm thứ nhất đi theo một người có uy quyền,
còn những người thuộc nhóm thứ hai đi theo một người chết.
*
Hành động của Đức Giêsu (13-15)
Chúng
ta không biết gì về tình cảm của cả hai nhóm. Nếu tác giả không ghi lại các
tình cảm của những người đi theo người chết cũng như phản ứng của các môn đệ
nhằm lưu ý Đức Giêsu về tình trạng bất hạnh của bà góa, thì không phải là vì
ngài quên, nhưng ngài muốn nêu bật kết quả: phần giới thiệu ngắn gọn và hoàn
toàn khách quan, bề ngoài, về các nhân vật, nhằm giúp tập trung chú ý vào lòng
thương cảm của Đức Giêsu: Người là chủ ngữ của tất cả các động từ trong cc.
1-15: thấy, chạnh lòng thương/đầy lòng trắc ẩn (splanchnizomai: ruột gan quặn thắt), nói (với bà góa), lại gần, sờ,
nói (với người chết), trao anh ta cho bà mẹ. Cũng như trong truyện Dakêu (Lc 19,1tt), chính sáng kiến của Đức
Giêsu gây ra sự cố: nếu Đức Giêsu đi qua mà không dừng lại trước bà góa hoặc
không ngỏ lời với ông trưởng nhóm thu thuế, thì hẳn là chẳng một ai
trong những nhân vật ấy đã được nếm cảm niềm vui. Trong cả hai trường hợp, lời Đức Giêsu nói cho
thấy Người hiểu thấu trái tim con người hoặc Người vén mở cho thấy dần dần căn
tính của con người. Quả thật, chính Đức Giêsu nói lên ý thức về nỗi phiền muộn
của người phụ nữ: “Bà đừng khóc nữa!” (c. 13), và về tuổi tác của người chết:
một người thanh niên (c. 14)! Đặc biệt lời Người nói có sức mạnh vô
song, bởi vì tức khắc điều Người truyền đã xảy ra: từ lời quyền năng của Người
trào vọt ra mọi thay đổi tiếp đó. Ta ghi các lời nói tuôn trào từ lời của Đức
Giêsu: “Đức Giêsu nói: Hãy trỗi dậy! Người chết liền … bắt đầu nói … Mọi người
đều nói: Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện … Lời này (logos) được đồn
ra trong khắp cả miền Giuđê”. Tác giả đã đưa chúng ta chuyển đi từ cái nhìn
trên nhóm người đi đưa đám sang chú ý vào Đức Giêsu bằng cách gọi Người là
“Chúa” (kyrios, c. 13). Ngài không nói trong tư cách là người tường thuật
một sự kiện, một biến cố, nhưng trong tư cách tín hữu. Đối với
tác giả, chính chúa tể của sự sống và sự chết đang ngỏ lời với bà góa. Có hai
chi tiết khiến ta nhờ đến bài thánh ca Benedictus:
Lòng trắc ẩn của Đức Giêsu (1,78: “Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn”) và lời của
dân chúng: “Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người” (7,16; x. 1,68: “đã viếng thăm
cứu chuộc dân Người”). Từ đó, có thể nói: khi Đức Giêsu cứu chữa vì lòng trắc
ẩn, Thiên Chúa đã đến gặp dân Ngài. Chính dân Israel đã đón Thiên Chúa đến viếng
thăm (7,17).
Cũng
cần ghi nhận một điểm nữa. Vừa giới thiệu xong hai nhóm, tác giả ghi
nhận một hành động của Đức Giêsu: “trông thấy bà, idôn autên” (c.
13a). Không phải người chết khiến Đức Giêsu phải động lòng thương, nhưng là
người mẹ đang khóc. Chính do ghi nhận này của tác giả mà người đọc hiểu rằng bà
đang yêu thương và đang đau khổ như chỉ một người mẹ mới có thể đau khổ,
và chính nỗi đau đớn này khiến trái tim của Đức Giêsu không chịu nổi. Chuyện
người chết bắt đầu nói cũng không quan trọng gì ở đây, vì điểm nhắm là người mẹ
đau khổ như bản văn nối tiếp cho thấy: c. 13a, “Chúa chạnh lòng thương bà”; c.
15b, “Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ”. Chúng ta ghi nhận rằng chủ ngữ của động
từ “chạnh lòng thương” là “Chúa” (trong phép lạ cho con gái ông Gia-ia sống
lại, chủ ngữ luôn là “Đức Giêsu”: 8,40.41.45.46.50): dường như tác giả muốn nêu
bật tư cách Mêsia của Đức Giêsu, hơn là chiến thắng của Người trên sự chết. Như
vậy, việc cho người con trai của bà góa sống lại được coi như một trong các kỳ
công của Đấng Mêsia, nhằm chứng thực cho sứ vụ của Đức Giêsu (x. Lc 7,19: Gioan sai các môn đệ đến hỏi
“Chúa”). Tuy nhiên, cả hai lần từ “Chúa” xuất hiện đều thuộc về người kể
truyện. Lý do: tác giả muốn giữ một khoảng cách so với tiếng nói của những
người có mặt (các môn đệ và đám đông), vì họ đang tung hô Người là “một vị ngôn
sứ vĩ đại” (7,16). Tác giả vừa duy trì ý kiến chung của mọi người coi Đức Giêsu
là “ngôn sứ vĩ đại” (c. 17: “Lời này về Đức Giêsu…”), vừa đưa vào một sự hiểu
biết mới mẻ và đúng đắn hơn về Đức Kitô.
Người
phụ nữ trở thành mẹ vào lúc bà đón nhận người con trai từ tay Đức Giêsu, khi bà
đón lấy làm con người thanh niên vừa nhận sự sống không phải từ bà nữa nhưng từ
Đấng Tạo Hóa: từ cử chỉ của Đức Giêsu, cả bà lẫn chàng trai nhận được chân tính
là mẹ và là con. Tác giả vẫn không muốn nói về các tình cảm của bà mẹ, chẳng
hạn hy vọng trước khi phép lạ xảy ra và tri ân sau khi người con đã được trả
lại vì ngài chỉ nhắm làm cho mọi người biết rằng mọi chuyện đều được Đức Giêsu
biết và làm cho xảy ra.
*
Phản ứng của dân chúng: ca ngợi và phổ biến (16-17)
Tuy
không nói gì về các tâm tình của hai mẹ con, tác giả Lc không làm cho ta nghĩ họ là những con người vô ơn: bản văn nhấn
mạnh rằng “mọi người” không ngoại lệ “tôn vinh Thiên Chúa” (c. 16), và cũng như
ở Lc 19,7, tính từ “mọi / tất cả
[người]” (pantes) có một ngoại diên tối đa bao hàm cả người phụ
nữ và chàng trai.
Cho
dù trong cc. 16-17, Đức Giêsu không nói cũng không hành động nữa, Người vẫn
hiện diện, hoặc thậm chí hiện diện khắp nơi, bởi vì danh tiếng Người tràn lan
ra đến tận biên cương xứ Paléttina. Lời Người nói cũng như việc Người làm nay
biện minh cho việc dân chúng nhìn nhận Người là “ngôn sứ” như Êlia (1 V 17,17-24 LXX) của thời đại cuối cùng (x. Lc
9,18) và sự kiện danh tiếng Người được đồn thổi khắp nơi. Cuối cùng, Thiên Chúa
cũng được ca ngợi là “đã viếng thăm dân Người”. Câu 16c này rõ ràng nhắc lại
lời mở và kết của bài Benedictus (1,68.78). Việc Đức Giêsu đi ngang qua
được coi như là việc Thiên Chúa viếng thăm nhằm cứu độ dân Ngài.
+ Kết
luận
Trong
bài tường thuật này, các hàng rào bị phá vỡ. Đức Giêsu chạm tới thi hài, ngược
lại mọi luật lệ về trong sạch (x. Ds
19,11-16). Nhưng ở một độ sâu hơn nữa, Người triệt tiêu giới hạn giữa sự chết
và sự sống, bằng cách làm cho chàng trai sống lại và ban lại niềm hy vọng cho
ai đã hoàn toàn mất hy vọng. Thế rồi “lời” băng qua cổng thành và tràn lan khắp
vùng. Ý nghĩa của phép lạ có tính phổ quát: có một Đấng có thể làm cho người
chết sống lại. Việc triệt hạ các hàng rào mở ra một cửa sổ trên mầu nhiệm của
Đấng, khi tỏ ra thương xót và biểu lộ ơn cứu độ cho dân Người, được nhìn nhận
là vị ngôn sứ vĩ đại, đồng thời là Chúa tể của sự sống.
Bằng
khả năng viết tài ba, tác giả Lc đã
tiến hành bằng cách mô tả hai nhóm, rồi tập trung vào nhân vật chính là Đức
Giêsu (phản ứng của Người, sáng kiến, lời năng động và các hậu quả), rồi ngay
sau đó trở lại với nhóm đã được thống nhất (“mọi người”). Sự biến đổi không chỉ
hệ tại việc đưa chàng trai trở về cõi sống, hay trong việc một người mẹ
mất con nhận lại anh ta vẫn sống từ tay Chúa, nhưng còn trong sự kiện hai đám
đông tách biệt nay hiệp nhất với nhau mà ca ngợi tôn vinh Thiên Chúa.
Phần các môn đệ, nếu các ông đã nhận
ra Đức Giêsu là Đấng Mêsia của Thiên Chúa , điều này có nghĩa là Đức Giêsu đã
làm những dấu chỉ cho phép các ông nhận ra Người. Do đó, các môn đệ sẽ phải
bước theo Thầy trên nẻo đường đưa tới cái chết và cuộc tôn vinh, hầu cho hành
vi nhận biết được nên thật.
5.- Gợi ý suy niệm
1.
Điểm quan trọng của bản văn không phải là người chết hoặc cái chết, hoặc việc
trở lại cõi sống, nhưng là sự kiện một người mẹ, đã là góa bụa, lại vừa
mất đứa con một và Đức Giêsu không chịu để cho bà phải khóc lóc. Việc
trở về cõi sống không phải là mục tiêu mà sáng kiến Đức Giêsu nhắm tới. Hành
động của Đức Giêsu đã kết thúc với một nhận xét đẹp: “Đức Giêsu trao anh
ta cho bà mẹ” (c. 15). Chuyện người chết bắt đầu nói cũng không quan trọng gì ở
đây, vì điểm nhắm là người mẹ đau khổ như bản văn nối tiếp cho thấy: c. 13a,
“Chúa chạnh lòng thương bà”; c. 15b, “Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ”.
2. Người
góa phụ, như một “đứa con thinh lặng”, chẳng thốt lên một lời
nào. Bà không cầu xin được giúp đỡ; tác giả không nói rằng bà góa ấy có lòng
tin vào Đức Giêsu, hay bà đã đi theo Người, hoặc là bà đã nghe biết về Đức
Giêsu và quyền năng của Người. Chẳng có yêu cầu trông mong nào đối với phép lạ
ấy. Không, đây là một câu chuyện về sự khó khăn túng thiếu của con người. Thế
nhưng, điều đó chưa phải là đã kết thúc, như người ta vẫn nói: “nhìn vậy chứ không phải vậy” (hoặc
tất cả những chứng cứ chưa nói lên được điều gì). Cái chết không phải là kết
thúc câu chuyện bà góa và của cả chúng ta nữa. Bởi lẽ, Đức Giêsu đã đến và trông
thấy nhu cầu của con cái Chúa đang lặng thầm. Người cho đứa con trai của bà góa
được sống lại, và hơn thế nữa, Người còn cho bà góa cũng được sống lại. Nỗi đau
buồn hiện tại của bà đã được cất khỏi, bà lại có niềm hy vọng vào tương lai
(Siciliano).
3. Chúng
ta có thể suy ngẫm về lời và cử chỉ của Đức Giêsu, một lời hết sức uy
quyền và một cử chỉ hết sức khả ái. Người đã gọi người chết trở về cõi
sống và trao anh ta cho bà mẹ. Trong tư cách là Đấng Tạo Hóa, Người đã ban cho
anh sự sống rồi trao anh cho mẹ. Chính khi đó, người phụ nữ trở thành mẹ và
chàng trai trở lại làm con.
4. Sự
hiện diện của Đức Giêsu giữa lòng nhân loại chính là sự hiện diện của Thiên
Chúa cứu độ. Sự hiện diện này không chỉ đưa lại sự an ủi, khích lệ, mà còn đưa
lại sự sống, khôi phục sự sống và kiến tạo sự hiệp nhất. Chính những hiệu quả
này giúp dân chúng nhận ra rằng Thiên Chúa đã đến viếng thăm họ nơi “vị ngôn sứ
vĩ đại” này. Đấy hẳn cũng phải là điều các môn đệ của Đức Giêsu ở mọi thời phải
chứng tỏ.
5.
Lời đáp của đám đông mang dấu ấn là nỗi sợ hãi và tâm tình tôn vinh Thiên Chúa.
Đây là phản ứng tiêu biểu của con người khi đứng trước sự biểu lộ của thế giới
siêu việt, của Thiên Chúa (x. Lc
1,12.65; 2,9; 5,26), nỗi sợ hãi có kèm theo việc tôn vinh Thiên Chúa (Lc 2,20; 5,26; 13,13; 17,15; 18,43;
23,47), dấu chứng tỏ có hiểu biết về Thiên Chúa và đáp lại bằng lời cầu nguyện
với mạc khải của Thiên Chúa.
Lm FX Vũ Phan Long, ofm