Phêrô tuyên
xưng đức tin
và Đức
Giêsu tiên báo cuộc Thương Khó lần đầu
(Luca 9,18-24 –
CN XII TN - C)
1.-
Ngữ cảnh
Ngay sau
truyện Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông, tác giả Lc đặt
truyện Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Lời tuyên xưng
này dường như được dùng để thay thế cho phản ứng kinh ngạc và lời tung hô mà ta
thường thấy tác giả dùng làm kết thúc một truyện phép lạ.
Đàng khác,
so với TM Mc, lời tuyên xưng
của Phêrô được đặt rất gần với câu hỏi tiểu vương Hêrôđê đặt ra về Đức Giêsu
(9,9). Rất có thể tác giả muốn coi lời Phêrô đáp lại câu hỏi của Đức Giêsu cũng
là câu trả lời cho câu hỏi được vua Hêrôđê đặt ra trước đó. Cũng vì lý do đó mà
ngài đã rút ngắn bản văn bằng cách bỏ ghi chú về địa lý cũng như lời phản đối
của Phêrô sau đó cùng với lời Đức Giêsu mắng ông. Lời tuyên xưng của Phêrô
không còn là một bước ngoặt quyết liệt như trong Mc (ch. 8), hoặc như
bản văn đăt nền móng cho Hội Thánh nữa như trong Mt (ch. 16), nhưng được
dùng như câu trả lời cho vua Hêrôđê.
2.-
Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1)
Phêrô tuyên xưng đức tin (9,18-21);
2)
Đức Giêsu tiên báo Thương Khó (9,22);
3)
Đức Giêsu dạy về người môn đệ (9,23-27).
3.- Vài điểm chú giải
- c.18:
Công thức dẫn nhập riêng của Lc, dùng để tách biệt hai phần: nhân bánh
(trước đám đông); tuyên xưng đức tin (trước các môn đệ). Tác giả Lc
không nói tới Xêdarê Philípphê, vì trung thành với chủ ý giữ Đức Giêsu trong
giai đoạn đầu sứ vụ ở trong vòng đất Paléttina.
- cầu
nguyện (18): Đây là đề tài quan trọng của TM III. Ta có ấn tượng là tất cả các biến cố quan trọng trong cuộc
đời Đức Giêsu đều xảy ra trong một bầu khí cầu nguyện. Còn nếu tác giả Lc đã
ghép hai lần đề tài cầu nguyện trong phân đoạn 9,18-50, thì đấy là dấu cho thấy
ngài coi việc cầu nguyện là việc quan trọng giúp giải thích chuyến đi lên
Giêrusalem theo quan điểm thần học.
- Đám
đông nói Thầy là ai (18): Đây là điều tác giả Lc đã
ghi nhận ở 8,25. Ngài đã
gom các ý kiến lại trong hai đoạn văn song song:
|
Lc
9,7-9 |
Lc
9,18-20 |
Dẫn nhập
|
a)
c. 7 |
a)
c. 18 |
Ý kiến của dân chúng
|
b)
Thật vậy, có kẻ nói: "Đó là ông Gioan từ cõi chết trỗi dậy". Kẻ
khác nói: "Ông Êlia xuất hiện đấy!" Kẻ khác nữa lại nói: "Đó
là một ngôn sứ thời xưa sống lại" |
b)
Các ông thưa: "Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là
ông Êlia, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại" |
Phán
đoán của một người |
c)
Còn vua Hêrôđê thì nói: "Ông Gioan, chính ta đã chém đầu rồi! Vậy thì
ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?" |
c)
Người lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Phêrô thưa:
"Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa" |
-
Thầy là Đấng Kitô (20): Đức Giêsu đã được xác định là “Đấng Mêsia” trong bài tường
thuật về thời thơ ấu (2,11); như thế danh hiệu này không mới đối với Kitô hữu
đọc Tin Mừng này. Nhưng danh hiệu này
được đưa vào đấy là dưới ánh sáng của những gì được nói về Đức Giêsu bên trong
chính Tin Mừng. Chính là trong truyện
ấy mà chúng ta được tiếp xúc với truyền thống đang thành hình về tư cách Mêsia
của Đức Giêsu. Ở 4,41, danh hiệu ấy lại xuất hiện, nhưng là lời bình của tác
giả.
Trong
bản văn chúng ta đang tìm hiểu, phản ứng của Đức Giêsu trước lời tuyên xưng của
Phêrô (c. 21) là để cấm ông nhắc lại danh hiệu ấy trong thời gian Người còn
hoạt động, và lời này chuẩn bị cho độc giả đón lấy các lời có tính điều chỉnh
sắp đến ở cc. 22.23-27.28-36.44-45. Đức Giêsu lại không cấm như thế cho quỷ
trong 8,28, mà ở đấy độc giả hiểu rằng đã có một cuộc đối thoại giữa Đức
Giêsu và quỷ. Ở đây lời tuyên xưng của Phêrô được bày tỏ trong bối cảnh là câu
hỏi của Đức Giêsu về những gì dân chúng đang nghĩ về Người và những gì các môn
đệ đang tin. Như thế, lời này trở thành một câu trả lời quan trọng mang
tính Kitô học trong Lc. Và đây là một tư cách Mêsia có hàm chứa
đau khổ, sự loại trừ, cái chết, cho dù nó đưa tới sự sống lại (x. c. 22).
“Kitô” phải được hiểu theo nghĩa Do
Thái: một nhân vật được xức dầu mọi người đang mong đợi thuộc dòng dõi Đavít,
sẽ được Thiên Chúa sai phái đến (x. 2,11). Có thể nói, lâu nay Phêrô đã chứng
kiến Đức Giêsu rao giảng về Nước Thiên Chúa, chữa bệnh, với các phép lạ, nay
ông chứng tỏ là ông hiểu Đức Giêsu là Đấng xức dầu của Thiên Chúa được cử đến
để “khôi phục vương quốc Ít-ra-en” (Cv
1,6; x. Lc 2,26; 4,41).
-
không được nói điều ấy với ai (21): Đức Giêsu không phủ
nhận Người là Đấng được xức dầu của Thiên Chúa, nhưng cấm các môn đệ nói ra vì
danh hiệu này có những âm hưởng chính trị. Người sẽ điều chỉnh tiếp bằng 9,22.
- Con
Người phải chịu đau khổ (22): Động từ Hy Lạp dei, “phải”
nói lên điều cần thiết vì nằm trong chương trình cứu độ của Chúa Cha.
- kỳ
mục, thượng tế, cùng kinh sư (22): Đây là ba nhóm làm thành Thượng Hội Đồng
tại Giêrusalem (xem thêm 20,1; 22,52; Cv
4,5; 23,14; 25,15). “Kỳ mục” (presbyterous, “elders”) không chỉ có nghĩa
là “những người già” (như ở Cv 2,17),
nhưng là một nhóm đặc biệt gồm những vị lãnh đạo cộng đồng Do Thái.
“Thượng tế” (archiereis) là thủ lãnh các tư tế phục vụ tại Đền Thờ
Giêrusalem, vị chủ tọa Thượng Hội Đồng, và là vị lãnh đạo tối cao của dân Do
Thái. Số phức ở đây không có nghĩa là các vị cựu thượng tế, mà là “các tư tế
cao cấp”, những vị xuất thân từ các gia đình tư tế. Họ kiểm soát việc tế tự,
quỹ, và kỷ luật tư tế tại Đền Thờ. Trong số đó, có “viên lãnh binh Đền Thờ” (Cv 4,1), các vị điều hành sinh hoạt hằng
tuần, các trưởng phụ trách việc phục vụ hằng ngày và các vị giám luật Đền Thờ.
Còn “kinh sư” (grammateis) là các chuyên viên Luật (có khi Luca cũng gọi
là nomikoi, “các nhà thông Luật”; x. 7,30).
- sẽ
được cho trỗi dậy (22): dịch sát là như thế, để thấy đây là một thái
bị động nói quanh để thay tên Thiên Chúa, có nghĩa là “Thiên Chúa làm cho Người
trỗi dậy”.
- từ
bỏ chính mình (23): dịch sát là “chối chính mình” (arneomai [h]eauton), có nghĩa là chọn một thái độ sống không
lấy mình làm trung tâm, nhưng thật sự cho phép đồng hóa lối sống của mình với
Đức Giêsu và sứ mạng của Người.
- vác
thập giá (23): Hình ảnh này sau được áp dụng cho Simôn Kyrênê (23,26).
“Vác thập giá” có nghĩa là bắt chước Đức Giêsu khi bị đóng đinh, tức sẵn sàng
chịu tử đạo, nhưng cũng có nghĩa là sẵn sàng chịu chống đối và thù nghịch trong
cuộc sống mỗi ngày.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Phêrô tuyên xưng đức tin
(18-21)
Ngay sau truyện nuôi đám đông là
truyện Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô. Tác giả đã viết gọn lại để cho
truyện này trở thành một câu trả lời cho câu hỏi của tiểu vương Hêrôđê.
* Đức Giêsu tiên báo Thương
Khó (22)
Đức Giêsu đã tiên báo cuộc Thương
Khó-Phục Sinh để điều chỉnh quan niệm về Đấng Mêsia của Phêrô hẳn là còn nhuốm
màu sắc chính trị. Và các lời này cũng vẫn cung cấp một câu trả lời cho Hêrôđê. Chúng còn cung cấp một
bối cảnh cho mở đầu của bài tường thuật về chuyến đi lên Giêrusalem.
Đức Giêsu cho biết cuộc Thương Khó
cũng như Phục Sinh của Người thuộc về chương trình của Thiên Chúa. Chính Chúa
Cha quyết định như thế, và Đức Giêsu gắn bó với ý muốn của Cha Người hầu cứu độ
nhân loại.
* Đức Giêsu dạy về người môn
đệ (23-27)
Tác giả liên kết vào lời loan báo đầu
tiên về Thương Khó năm lời khác nói về đời môn đệ (khá giống với Mc 8,34–9,1) được ngỏ với “mọi người”.
Có lẽ đây là những lời tách biệt được ghi giữ trong truyền thống. Câu đầu tiên
(“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà
theo”, c. 23) là câu căn bản, còn ba câu tiếp theo được đưa vào bằng liên từ gar,
“bởi vì”, do đó dịch sát là: “bởi vì ai muốn cứu mạng sống …” (c. 24); “bởi
vì người nào được cả thế giới …” (c. 25); “bởi vì ai xấu hổ vì tôi
…” (c. 26). Còn trong c. 27, tác giả bỏ chữ amên (của Mc 9,1) và thay thế bằng từ alêthôs,
“thật sự”, làm cho câu này được liên kết chặt chẽ với bốn câu trên và làm thành
một đơn vị mạch lạc.
Các câu này cũng là một cách
khác để trả lời cho tiểu vương Hêrôđê. Đến ngay sau lời tuyên bố của Đức Giêsu
về đau khổ, thân phận bị loại bỏ, phải chết của Người, các lời này cho thấy
Người đòi hỏi những kẻ muốn theo Người đến mức nào: làm môn đệ là “bước theo
Người”; việc “bước theo” này có ý nghĩa rất phong phú khi nó được đặt sát
chuyến đi lên Giêrusalem. Làm môn đệ có nghĩa là hằng ngày chia sẻ thân phận
của chính Người: vác thập giá của chính mình mà bước đi đàng sau Người, như một
cách chứng tỏ rằng mình không đánh giá mạng sống mình theo lợi nhuận trần thế,
như một thái độ tự hào về Người, và như là như một thái độ cho
phép người môn đệ hiểu sâu xa hơn các mầu nhiệm của Nước Thiên Chúa.
+ Kết luận
Tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô của
Thiên Chúa” vẫn chưa phải là điều đáng kể, nếu người môn đệ không sống phù hợp
với lời tuyên xưng đó. Chỉ khi sẵn sàng “từ bỏ chính mình, vác thập giá mình
hằng ngày mà theo” Người (9,23), người ấy mới cảm nghiệm sâu xa nơi bản thân
sức mạnh cứu độ của lời tuyên xưng đó, và mới làm chứng được cho người khác
rằng Đức Giêsu chính là Cứu Chúa duy nhất mà người ta phải tin vào và bước
theo.
5.- Gợi ý suy niệm
1.
Đức Giêsu không yêu cầu các môn đệ cho ý kiến về giáo huấn hoặc một hoạt
động nào đó của Người, nhưng cho ý kiến về bản thân Người. Câu hỏi của Người
cho thấy đây là điểm có tầm quan trọng số một. Người muốn đưa các ông đến chỗ
hiểu biết Người và tuyên xưng về bản thân Người cách không hàm hồ, dị nghĩa.
Điều quan trọng không phải là lời Người loan báo, nhưng là chính bản thân
Người.
2.
Phêrô tuyên xưng Người là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”, nghĩa là Người là vị Vua
và Mục Tử duy nhất, tối hậu và vĩnh viễn của dân Israel. Người được Thiên Chúa
cử đến để ban cho dân tộc này và toàn thể nhân loại có sự sống viên mãn. Người
chính là Đấng Mêsia được liên kết mật thiết với chính quyền năng ban sự sống,
với Thiên Chúa hằng sống.
3.
Tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa ngay sau phép lạ hóa bánh ra
nhiều, điều này không khó. Nhưng tiếp tục tuyên xưng Người như thế, khi chứng
kiến Người phải vác thập giá, chịu xử tử và chịu chết, khi chính mình, nếu
không đến nỗi phải đổ máu ra mà làm chứng, phải vác thập giá là các khó khăn
của một ngày sống, điều này khó hơn nhiều. Nhưng đó là cái giá phải trả
để được cùng sống lại với Đức Giêsu.
4.
“Làm người có nghĩa là ‘sống hướng về cái chết’; làm người có nghĩa là phải
chết… Sống trong thế giới này, có nghĩa là chết. «Người đã làm người» (Kinh Tin
Kính); vậy điều đó có nghĩa là Đức Kitô cũng đã đi đến cái chết. Sự mâu thuẫn
thuộc về cái chết của con người đạt tới nơi Đức Giêsu sự sắc bén cùng cực, bởi
vì nơi Người, Đấng ở trong một sự hiệp thông trao đổi trọn vẹn với Chúa
Cha, tình trạng cô độc tuyệt đối của cái chết hoàn toàn là một sự phi
lý. […]. Nhưng cũng như mẩu đối thoại này đã làm cho Người ra cô đơn, và cho
thấy Người đang đi đến cái chết quái gở ấy, thì nơi Đức Kitô, sự Phục Sinh cũng
đã hiện diện chắc chắn rồi. Nhờ cuộc Phục Sinh này, thân phận con người chúng
ta được tháp vào trong cuộc trao đổi tình yêu vĩnh củu của Ba Ngôi Thiên Chúa.
[…] Nhờ Đức Kitô, thân phận con người được đi vào trong chính hữu thể của Thiên
Chúa” (Thánh Ambrôsiô).
5.
Đối với môn đệ của Đức Giêsu, không có niềm vui sâu đậm nào mà không có bóng
dáng ơn Chúa Thánh Thần. Nói vậy không có nghĩa là đối với người môn đệ, đường
lên Giêrusalem là một hành trình vui vẻ đâu. Hôm nay Đức Giêsu nói cho các môn
đệ biết là ai muốn theo Người có thể phải trả một giá đắt là sẽ bị chết. Nếu theo
Đức Giêsu là lên đường thắng cuộc, thì chúng ta nên kết luận rằng thắng cuộc là
do bởi sự cố gắng của chúng ta. Chúng ta làm việc nhiều, cố gắng nhiều và chúng
ta thắng cuộc. Nhưng, ngược lại, khi chúng ta theo chân Đức Giêsu, chúng ta
nghiệm lại sự yếu đối, và thất bại như các môn đệ đã gặp. Và rồi, chúng ta lại
tìm thấy sự vui vẻ mới, và chúng ta kiên trì trong đau khổ, và điều đó do bởi
Thần Khí của Đấng đã hứa là Người sẽ trỗi dậy vào ngày thứ ba phải không?
(Siciliano).
Lm
FX Vũ Phan Long, ofm