SỨ MẠNG CỦA BẢY MƯƠI [HAI] MÔN ĐỆ
(Luca 10,1-12.17-20 – CN XIV TN -
C)
1.- Ngữ cảnh
Vừa bắt đầu phần tường thuật cuộc hành
trình lên Giêrusalem (9,51), tác giả Luca
đưa vào truyện Đức Giêsu cử bảy mươi [hai] môn đệ đi để dọn đường cho Người
(10,1-12). Trước đây, ta thấy Người đã phái Nhóm Mười Hai đi rao giảng và chữa
lành (9,1-6). Bây giờ đến lượt bảy mươi [hai] môn đệ được sai đi. Bản văn kết
thúc với những lời Đức Giêsu chúc dữ cho các thành thuộc miền Galilê và nhận
xét của Người về các môn đệ như là đại diện cho chính Người và cho Đấng sai
phái Người (10,13-15.16). Bản văn phụng vụ không đọc đoạn này.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1)
Đức Giêsu chỉ định và sai phái bảy mươi [hai] môn đệ (10,1);
2)
Đức Giêsu ban chỉ thị cho bảy mươi [hai] môn đệ (10,2-12);
3) Những nhận định sau khi bảy mươi
[hai] môn đệ đi giảng về (10,17-20).
3.- Vài điểm chú giải
-
Chúa (1): Danh hiệu kyrios được tác phẩm Lc-Cv dùng cho cả Đức Chúa (Yhwh)
và Đức Giêsu. Dùng cho Đức Chúa (Yhwh)
thì đã có trước Lc (x. Mc 11,9; 12,11.29.30.36; Lc 4,8//Mt 4,10 [thuộc Q]; Lc
4,12//Mt 4,7; Lc 10,27 [thuộc L]; 2 Cr
3,17-18). Đây là cách dịch Yhwh
của Bản LXX. Tại Paléttina tiền Kitô
giáo, người Do Thái gọi Yhwh bằng
tiếng Híp-ri là ’âdôn, “Chúa”, tiếng A-ram là mârê’ hoặc mâryâ’,
và tiếng Hy Lạp là kyrios. Rất có thể các Kitô hữu gốc Do Thái tại
Paléttina đã chuyển danh hiệu “Đức Chúa” này từ Yhwh sang cho Đức Giêsu, đặc biệt trong tư cách Đấng Phục
Sinh. Và như thế, điều này có nghĩa là lời tuyên xưng tiên khởi “Giêsu là Chúa”
(1 Cr 12,3; Rm 10,9) là một câu đáp lại kêrygma tiên khởi. Dùng
danh hiệu kyrios cho Đức Giêsu có nghĩa là đặt Người trên cùng một bình
diện với với Yhwh, mà không đồng
hóa Người với Yhwh, do chỗ không
bao giờ Người được gọi là ’abbâ’.
Khi so sánh với Mc (chỉ một lần dùng danh hiệu này cho Đức Giêsu: Mc 11,3), ta thấy Lc dùng thường xuyên (7,13.19; 10,1.39.41; 11,39; 12,42a; 13,15;
17,5.6; 18,6; 19,8a.31.34; [20,44]; 22,61 [2x]; 24,3.34); điều này khiến phải
lưu ý. Ở đây, đơn giản là Lc sử dụng
một danh hiệu nay đã thành thông dụng vào thời ngài, như phần tường thuật của
sách Cv cho thấy (vd: 1,21; 4,33;
514; 8,16…). Trong thời gian Đức Giêsu hoạt động công khai, nhiều người gọi
Người bằng từ kyrios ở hô-cách[1]
kyrie (5,8.12; 6,46 [2x]; 7,6; 9,54.59.61; 10,17.40; 11,1; 12,41;
13,23.25; 17,37; 18,41; 22,33.38.49). Trong các ví dụ này, không dễ gì mà xác
định được từ nào phải dịch là “ngài” (theo nghĩa trần thế) và từ nào phải dịch
là “Chúa” (theo nghĩa tôn giáo). Rất có thể vào lúc viết, tác giả Lc nhắm đến nghĩa tôn giáo, kể cả cho từ
ở hô-cách.
Đàng khác, ta phải ghi nhận rằng Lc còn trở ngược lại mà gán danh hiệu kyrios
cho giai đoạn đầu của cuộc sống trần thế của Đức Giêsu: lời các sứ thần loan
báo cho các mục đồng về “Chúa” ở Bêlem (2,11); lời bà Êlisabét chào Đức Maria
là “Thân Mẫu Chúa tôi” (1,43); lời Đức Maria tự nhận mình là “nữ tỳ của Chúa” (1,38). Các danh hiệu này
đúng ra nhắm đến Yhwh.
Khi sử dụng kyrios cho cả Yhwh lẫn Đức Giêsu trong tác phẩm, tác
giả Lc nhận danh hiệu này theo nghĩa lâu
nay vẫn được hiểu trong cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, tức là coi Đức Giêsu Phục
Sinh ở trên cùng một bình diện với Yhwh.
Khi rọi phóng danh hiệu này, một danh hiệu phát sinh từ cuộc Phục Sinh,
ngược lại sau cho những phần đầu của truyện về Đức Giêsu, tác giả bao trùm tính
cách của Đức Giêsu bằng một ảnh hưởng thật ra thuộc về giai đoạn ba của cuộc
đời Người.
- bảy
mươi hai người khác (1): nghĩa là khác với Nhóm Mười Hai, nhưng cũng rất có thể
khác với cả những sứ giả ở 9,52. “Bảy mươi” hay “bảy mươi hai”? Dù có áp dụng
phương pháp phê bình văn bản, chúng ta vẫn không thể quyết định dứt khoát cho
con số nào. Các thủ bản quan trọng hỗ trợ cho cả hai bên. Đọc vào các tác phẩm
Kinh Thánh, ta thấy dường như số bảy mươi có ưu thế hơn: bảy mươi kỳ mục được Môsê
chọn (Xh 24,1; Ds 11,16.24); bảy mươi con cháu của Giacóp (Xh 1,5; Đnl 10,22); bảy
mươi năm (Dcr 7,5 [?]). Con số bảy
mươi hai chỉ xuất hiện chính thức một lần khi sách Ds (31,38) nói đến số bò bê phải dâng cho Đức Chúa. Tuy nhiên,
dường như bản văn Cựu Ước nằm đàng sau con số là St 10,2-31, là danh sách các dân trên thế giới: bản văn Híp-ri thì
đọc là “bảy mươi”, còn Bản LXX lại
đọc là “bảy mươi hai”. Dù sao, tác giả TM
III đặt sứ mạng phổ quát của Hội Thánh của ông trên nền tảng là sứ mạng của
Đức Giêsu.
- cứ
từng hai người một (1): Người ta nói rằng tập tục đi hai người với nhau là của
người Do Thái, nhưng ta không thấy trong Cựu Ước có tập tục này. Đi từng cặp có
thể là để nâng đỡ lẫn nhau trên đường; nhưng theo nghĩa mạnh hơn, đó là để làm
chứng (vì pháp luật đòi phải có chứng của hai người: Đnl 19,15; Ds 35,30. Xem trường hợp Phaolô và Banaba: Cv 13,1; Phaolô và Xila: Cv 15,40; Phêrô và Gioan: Cv 8,14; Banaba và Máccô: Cv 15,40; Giuđa và Xila: Cv 15,32).
- Lúa
chín đầy đồng (2): Theo TM Lc,
đây là một hình ảnh của thời gian trong đó việc rao giảng về Nước Thiên
Chúa được thực hiện (x. 8,15.16-17). Đã đến giờ loan báo Nước Thiên Chúa cách
rộng rãi và con số người chấp nhận sứ điệp sẽ đông. Trong Cựu Ước, mùa gặt là
một hình ảnh nói về việc Thiên Chúa xét xử muôn dân vào thời cánh chung
(Ge 4.1-13; Is 27,11-12).
- hãy
xin chủ mùa gặt (2): Chỉ thị này hàm ý là công việc của Đức Giêsu và sứ mạng
của các môn đệ nằm dưới sự quan phòng của chính Thiên Chúa: Ngài đang tạo ra
một giai đoạn mới trong việc rao giảng nhằm cứu độ và Ngài sẽ là thẩm
phán vào “ngày ấy” (c. 12).
- như
chiên con đi vào giữa bầy sói (3): Hình ảnh này gợi ra
những nguy hiểm, chống đối, thù nghịch, đi theo hoạt động của các môn đệ, cũng
như hoạt động của chính Đức Giêsu.
- đừng
chào hỏi ai dọc đường (4): Người ta giải thích lệnh này nhiều cách. (1) Các môn đệ
không được mất giờ vào việc nói chuyện với dân chúng vì mùa màng cần phải gặt
gấp. Họ chỉ nên gửi lời chào đến các nhà và các thành thôi (x. 2 V 4,29). (2) Các môn đệ phải tập trung
vào việc rao giảng và chữa lành, chứ không vào những vấn đề trần thế. Quan hệ
do việc rao giảng về Nước Thiên Chúa đòi hỏi không được đo lường bằng thái độ
lịch sự hay những lời chào hỏi. (3) Đây là một lưu ý về thái độ thù
nghịch mà các môn đệ Đức Giêsu, trong tư cách là những tiền hô của Người, phải
sẵn sàng đối mặt.
-
bình an (5): Cần hiểu “bình an” này theo nghĩa của từ shalôm
trong Cựu Ước (do ngữ căn shlm, có nghĩa là “sự đầy đủ, sự
toàn vẹn”), diễn tả lòng quảng đại của Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động
nhằm cứu độ. Và diều này được thực hiện cụ thể nhờ công trình cứu độ của Đức
Giêsu (x. 7,50; 8,48; 24,36).
- ai
đáng hưởng bình an (6): dịch sát là “con cái của sự bình an”, tức là một người
mở ra và có thể đón nhận hoa trái ơn cứu độ do Đức Giêsu mang đến.
-
bình an của anh em (6): nghĩa là sự bình an anh em mang đến trong tư cách sứ giả
của Thầy.
- vào
bất cứ thành nào (10): Cả thành phải đối diện với lời rao giảng và việc chữa
lành. Các môn đệ phải làm một hành
vi công khai.
-
nghe đến danh Thầy (17): dịch sát là “trong / với danh Thầy”, nghĩa là khi kêu cầu
danh Thầy. Viêc dùng danh Đức Giêsu trở thành một đề tài quen thuộc
trong Cv (3,6; 4,10.17-18.30; 5,40;
9,27).
-
Thầy đã thấy Satan như một tia chớp từ trời sa xuống
(18): Ta có thể hiểu câu văn này theo hai cách: a) “Thầy đã thấy Satan sa xuống
như một tia-chớp-từ-trời”: “từ trời” bổ nghĩa cho “chớp” và “trời” là nơi xuất
phát “chớp” (P. Joüon; F.W. Lewis); b) “Thầy đã thấy Satan như một tia chớp từ
trời sa xuống”: cách dịch này gợi đến kiểu Cựu Ước mô tả Satan như “kẻ đối lập”, một công chức của triều đình
thiên quốc của Yhwh có nhiệm vụ
tố cáo loài người (G 1,6-12; 2,1-7; Dcr 3,1-2); vậy cách dịch này muốn nói
rằng Satan đã bị trục xuất khỏi vai trò đó (Fitzmyer). Cách dịch này hợp lý
hơn.
Đây không phải là một thị kiến
của Đức Giêsu tiền hữu, bởi vì sự tiền hữu của Người không được Lc để ý đến trong TM, cũng không phải là
một thị kiến Đức Giêsu có trong một lúc xuất thần trong thời gian
đi hoạt động. Đây cũng không phải là một thị kiến báo trước về một điều
sẽ xảy ra trong cuộc phán xét cuối cùng. Đúng hơn, Đức Giêsu “thấy” đây là một
cách nói biểu tượng nhằm tóm tắt các hiệu quả mà các môn đệ đã đạt được khi
đi thi hành sứ vụ.
- rắn
rết, bọ cạp (19): Ở Paléttina, ai cũng biết rắn và bọ cạp là nguồn gây ra
sự dữ thể lý, nhưng Cựu Ước dùng như biểu tượng để nói về mọi thứ sự dữ (x. Đnl 8,15; Ds 21,6-9; Hc 21,2; 1 V 12,11.14; Hc 39,30).
- tên
anh em đã được ghi trên trời (20): Lời này gợi ý tới một
hình ảnh của Cựu Ước: quyển sách sự sống ở trên trời, ghi tên những người
thuộc về dân Thiên Chúa (Xh 32,32-33;
Tv 69,28; 56,9; 87,6; Is 4,3; 34,16; Đn 12,1; Ml 3,16-17; Tân
Ước dùng lại: Pl 4,3; Dt 12,23; Kh 3,6; 13,8; 17,8; 20,12.15; 21,27).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức
Giêsu chỉ định và sai phái bảy mươi [hai] môn đệ (1)
Ngoài việc sai phái Nhóm Mười Hai đi
rao giảng và chữa lành (Lc 9,1-6), TM III kể rằng Đức Giêsu có chọn và cử
một nhóm môn đệ khác (bảy mươi hay bảy mươi hai người) đi trước để dọn đường
cho Người (10,1-12). Tuy Lc mô tả Đức
Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem, tác giả không bao giờ cho biết các môn đệ
được sai phái đi đâu và sau đó từ đâu trở về. Nhưng qua việc sai phái nhóm môn
đệ này, ta hiểu là Đức Giêsu và sứ điệp của Người nhắm đến toàn thể nhân loại.
* Đức
Giêsu ban chỉ thị cho bảy mươi [hai] môn đệ (2-12)
Đây là bản văn nhắc lại những chỉ thị
ban cho Nhóm Mười Hai ở Lc 9,1-6,
nhưng nêu bật hai điểm quan trọng: tính cấp bách và thái độ thù nghịch. Các môn
đệ phải đi từng hai người một vì phải hành động trong tư cách chứng nhân. Các
ông không được để cho các trở ngại làm chùn bước khi đi rao giảng về Nước Thiên
Chúa. Việc chữa lành và loan báo phải làm nhanh như những thợ gặt phải nhanh
tay thu hoạch lúa chín về kho. Các ông phải hiểu rằng các ông không được cử đi
để làm những bổn phận xã hội, bởi vì những gì các ông phải giảng và phải làm sẽ
đặt các ông ra một bên. Các ông sẽ không có giờ mà chào hỏi như quen
làm, hay để ý tới loại lương thực các ông sẽ dùng, hoặc tìm nơi trú ngụ tiện
nghi hơn. Sứ điệp các ông phải truyền đạt là: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần
các ông”. Cung cách các ông làm việc là cung cách của các thợ gặt đang vội gặt
lúa kẻo lúa bị hư đi. Tuy nhiên, các ông được cử đi như chiên con đi vào giữa
bầy sói, nghĩa là không có phương thế tự vệ, như những thọ tạo yếu đuối đứng
trước những tấn công gần kề.
Cc.
5-7 bàn đến cách cư xử của các môn đệ trong các nhà; còn cc. 8-9 bàn đến lối
sống của các ông trong các thành phố.
Dường
như lý do khiến tác giả Lc viết bản
văn lặp lại này (“điệp văn”) là sứ mạng rao giảng không chỉ dành riêng cho Nhóm
Mười Hai; những “người khác” cũng sẽ tham gia vào việc làm chứng cho Đức Giêsu
và cho Lời của Người. Đây là chiều hướng của sách Cv.
Đức
Giêsu không tức khắc truyền các môn đệ rao giảng và chữa lành. Vừa ghi nhận “lúa
chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” xong, Ngài bảo các ông hãy cầu nguyện để xin
Thiên Chúa sai thợ gặt đến. Việc gặt lúa là công việc của Thiên Chúa; các môn
đệ chỉ là những người thợ được cử đến làm việc mà thôi. Như thế, kết quả của
công việc thu hoạch không những lệ thuộc vào sự cộng tác của các ông, mà còn
tùy thuộc vào lời cầu nguyện của các ông nữa. Chủ ruộng là Thiên Chúa (người ta
phải rao giảng Nước của Ngài). Ở 8,11, Lời của Ngài được ví với hạt giống gieo
vào lòng đất. Bây giờ việc rao giảng về Nước được gián tiếp so sánh với một mùa
gặt. Đến đây ta ghi nhận rằng Đức Giêsu nhấn mạnh trên nhu cầu có các môn đệ
như là các cộng sự viên; còn bản thân Người là người được sai đi rao giảng
(4,18) nay sai những “người khác” đi, và đi đông người (10,1); các ông sẽ là
những đại diện của Người (10,16).
Các
chỉ thị kết thúc bằng một ghi nhận mang giọng đe dọa so sánh các thành
đã từ chối các môn đệ tương tự thành quê hương Người là Nadarét, đã từ chối sứ
điệp của Người, hoặc làng Samari nọ đã
không tiếp đón Người khiến các môn đệ muốn xin lửa trời xuống thiêu hủy
(9,53-54), với một thành Cựu Ước trứ danh, là Xơđom, đã bị lửa và diêm
sinh thiêu rụi (St 19,24). Vào ngày
phán xét, Xơđom với tất cả sự gian ác của thành lại được xử khoan hồng hơn các
thành kia vì họ đã loại trừ những đặc sứ của Thiên Chúa. Lời đe dọa này trở
thành điểm tựa cho những lời nguyền rủa sau đó (nhưng Phụng vụ không đọc ở
đây).
Đến
đây, cộng đoàn Kitô hữu thời tác giả Lc
thấy những nỗ lực truyền giáo của họ được liên kết với sứ mạng của chính Đức
Giêsu. Như vậy, công việc rao giảng của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi được bén
rễ trong giáo huấn và lệnh truyền này của Đức Giêsu.
*
Những nhận định sau khi bảy mươi [hai] môn đệ đi giảng về (17-20)
Tác giả đã gắn vào truyện Đức Giêsu
sai phái “bảy mươi [hai] người khác” một lời tường thuật về việc các ông trở
về, phần báo cáo của các ông về kết quả mỹ mãn, và ba lời bình của Đức Giêsu về
báo cáo của các ông cho biết những hiệu quả đạt được trong tư cách đại diện của
Người. Người ta không thể bỏ qua một bên, sự tương phản giữa sự việc
Xatan từ trời rơi xuống và việc tên các môn đệ được ghi trên trời, và bên kia,
sự tương phản giữa điều đi theo “danh” Người và hậu quả của công việc họ làm,
là “tên” của họ thực sự được ghi trên trời.
Đức Giêsu tóm các hiệu quả của sứ vụ
của bảy mươi [hai] ông bằng hình ảnh Satan bị trục xuất khỏi ngai (c. 18). Sau
đó (c. 19), Người giải thích thêm sự thất bại của tà thần: trong tư cách đại
diện của Đức Giêsu, các môn đệ có “quyền” trên mọi dạng biểu lộ của tà thần
(thể lý, biểu tượng, và nhân học). Nhận xét cuối cùng của Đức Giêsu (c. 20) đưa
sứ vụ của các môn đệ vào đúng viễn tượng thiên giới: lý do khiến các ông vui
mừng là vì chính Thiên Chúa đã ghi tên các ông vào sổ hằng sống, vào danh sách
những kẻ được Ngài ưu ái. Đức Giêsu lái sự chú ý của các môn đệ ra khỏi những
tư tưởng về một thành công lẫy lừng, gây cảm giác mạnh, để đi đến một
nhận định về tư cách của họ trên trời. Có quyền lực trên ma quỷ không bảo
đảm cho có sự sống; được ghi tên vào sổ sự sống mới là điều đáng kể.
+ Kết
luận
Các
đòi hỏi của Đức Giêsu với bảy mươi [hai] môn đệ giống với những đòi hỏi đối với
Nhóm Mười Hai (9,1-6). Hẳn đây cũng là những yêu cầu mà các nhà thừa sai mọi
thời phải đáp ứng: loan báo hòa bình thiên sai và Nước Thiên Chúa đang đến,
trong sự dịu êm và nghèo khó, nhân ái và phục vụ, vô vị lợi và chấp nhận nếp
sống bấp bênh, thiếu tiện nghi và an toàn. Chỉ với cái giá này, các môn đệ mới
đạt được chiến thắng trên Thần Dữ và công trạng được Thiên Chúa ghi nhớ.
5.- Gợi ý suy niệm
1.
Đức Giêsu đã ghi nhận: “Lúa chín đầy
đồng mà thợ gặt lại ít”. Tuy nhiên, Người lại mời các môn đệ cầu xin chủ mùa
gặt gửi thợ đến. Như thế, Ngài nhắc các ông nhớ rằng Thiên Chúa là Chúa của dân
chúng và tất cả những gì liên hệ đến dân chúng thì đều ở dưới quyền chúa tể của
Thiên Chúa. Ai muốn thật sự giúp đỡ dân chúng, thì không thể tự mình đi theo
sáng kiến riêng và nhân danh mình, nhưng phải được chủ mùa gặt sai đi.
2.
Chính Đức Giêsu đã sai các môn đệ đi. Người xử sự như là chủ mùa gặt. Thật ra
Người làm nhân danh Thiên Chúa và làm vì lòng từ bi thương xót đối với dân. Các
môn đệ ra đi phải chu toàn sứ mạng theo chiều hướng này.
3.
Hành lý các môn đệ mang theo chẳng có gì, ngoài sứ điệp phải truyền đạt. Các
ông không là gì khác ngoài tư cách sứ giả của sứ điệp này và các ông không mang
theo gì ngoài sứ điệp này. Rõ ràng các ông cần một hành trang và một nơi
cư ngụ. Tuy nhiên, các ông không được đòi hỏi gì và bận tâm gì cả. Các ông chỉ
phải hoàn toàn quan tâm đến sứ điệp của các ông mà thôi. Một đòi hỏi phải nghèo
khó, khiêm nhường và chấp nhận yếu đuối như thế, thì ngược lại với cám dỗ muốn
đạt hiệu năng bằng mọi giá.
4.
Việc loan báo Tin Mừng không thể là chuyện của một cá nhân riêng lẻ mà
là việc của một cộng đoàn, cho dù ở dạng phôi thai. Không người môn đệ
nào có thể tự cho rằng mình có sứ điệp Kitô giáo và có thể phản ảnh được hết sự
phong phú của sứ điệp. Chính là trong đối thoại mà tôi sẽ nói về một vị
Thiên Chúa đã chấp nhận đối thoại với loài người cho đến độ trở thành một người
trong loài người.
5.
Chúng ta không phải là những người bảo thủ. Chúng ta cảm phục những lời dạy bảo
của Đức Giêsu khi đi đường với hành lý gọn nhẹ; Người dạy phải tin tưởng vào
Người và tin tưởng sứ điệp mà chúng ta mang theo. Tuy nhiên, có những nơi và
những tình huống đòi buộc, thì chúng ta phải dùng đến những nguồn vật chất để
cung cấp cho những nhu cầu thể lý của người dân. Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ chúng
ta cả thân xác lẫn linh hồn. Vì vậy, các Kitô hữu phải gây quỹ để xây dựng bệnh
viện, trại mồ côi, trường học, nhà cửa cho những ai lâm cảnh khốn khó.
Có những
Kitô hữu gương mẫu đã thực hiện những công việc tốt lành này, trong số đó, có
những người được phong thánh, có những người được biết đến như là những người
tốt lành và là những người yêu thương kẻ bần cùng. Họ có thể giỏi với gạch vữa.
Nhưng trong tim, họ không đặt tin tưởng vào “túi tiền”, “bao bị” hay “giày
dép”, nhưng họ đặt tin tưởng vào Đấng đã sai họ đi với những lời, “Hãy ra
đi…”. Nhiều người đã đối diện với “những con sói” tham mồi, tham vọng và uy
quyền đang chống lại họ. Họ đã vượt qua những thế lực tiêu cực này, không phải
bằng việc đọ súng với nhau, nhưng vượt qua bằng cách nhớ lại Đức Giêsu đã nói
rằng họ sẽ có Thánh Thần cùng đồng hành (Siciliano).
Lm FX Vũ Phan Long, ofm