NGƯỜI KHÁCH MUỐN GÌ?
(Luca 10,38-42 – CN XVI TN - C)
1.- Ngữ cảnh
Chúng
ta vẫn đang ở trong chuyến đi lên Giêrusalem. Vì có lý để nghĩ rằng hai chị em
Mácta và Maria chính là những nhân vật của Ga
11,1tt, tức ở Bêtania, gần Giêrusalem, chúng ta phải tự hỏi tại sao tác giả Luca
lại đặt truyện này ở đây, vì đến lúc này truyện vẫn gần với Galilê hơn
Giêrusalem. Hơn nữa, ngài lại bỏ tên Bêtania đi, mà chẳng lẽ ngài lại không
biết? Như thế, hẳn ngài có ý gì đó khi đặt truyện này ở đây chứ không phải ở
chỗ khác (chẳng hạn ở ch. 19 hoặc 20).
Chúng ta xem truyện này liên hệ với
các bản văn trước thế nào. Maria được mô tả như người “lắng nghe lời” Đức
Giêsu. Đức Giêsu công bố rằng chính việc “lắng nghe lời” này sẽ không bị lấy
mất. Trước đó, Đức Giêsu mới nói đến quan hệ sâu sắc, duy nhất, mà Người đang
có với Chúa Cha (10,22). Quan hệ này được nói đến vì nó liên hệ đến các môn đệ
Đức Giêsu: họ được chúc phúc bởi vì họ được Người mạc khải Chúa Cha cho; họ
được nghe và thấy những điều Người biết về Chúa Cha. Như thế, các môn đệ có một
đặc quyền lớn lao là được thấy và nghe những điều mà thậm chí các ngôn sứ
và các vua chúa ước ao hết sức mà không được.
Ở đây, tác giả Lc nhắc lại đặc
quyền đó. Ngài mô tả Maria trong tư thế tốt đẹp nhất: lắng nghe lời dạy của Đức
Giêsu. Khi lắng nghe Người, Maria nghe Người mạc khải về Chúa Cha. Chính vì
thế, tác giả đã nhắc lại động từ “lắng nghe” (cc. 24.39) như để nối kết các ý
tưởng của hai đoạn văn. Sau đó, Lc trình bày cuộc đối thoại về “điều răn
lớn” (10,25-37), với câu kết: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (c. 37).
Mục đích của ngài khi bố trí truyện Mácta-Maria ở đây là để nêu bật tầm quan
trọng tối hậu của giáo huấn của Đức Giêsu trong Lc 10,25-37: giáo huấn này là một mạc khải mà “các vua chúa
và ngôn sứ” không được đón nhận.
Truyện
Mácta-Maria cũng có thể được đặt ở đây để điều chỉnh một sự hiểu lầm có
thể có đối với dụ ngôn Người Samari nhân hậu. Ông này đã “chạnh lòng thương” (esplanchnisthê):
vậy, hành vi luân lý của chúng ta rất có thể được hướng dẫn bởi các tình cảm
của con người! Lc muốn sửa lại: chính giáo huấn của Đức Giêsu mới hướng
dẫn hành vi luân lý.
Và để
dùng truyện hai chị em Mácta-Maria này mà hỗ trợ cho dụ ngôn Người Samari nhân
hậu, mà dụ ngôn này thì được đặt tại ch. 10, trong khi đến 19,28 thì mới “tiến
lên Giêrusalem”, để khỏi gây ra một điểm thiếu hợp lý trong lộ trình, tác giả
bỏ tên làng “Bêtania” đi.
2.- Bố cục
Bản
văn có thể chia thành hai phần:
1)
Phần tường thuật: Khung cảnh và các nhân vật (10,38-40a);
2)
Phần đối thoại: Mácta và Đức Giêsu (10,40b-42).
3.- Vài điểm chú giải
- một
làng kia (38): Trong TM III, làng này không có tên (x. 9,56). Cứ
theo bản văn, “làng” này còn gần Galilê hơn là Giêrusalem. Theo Ga 11,1; 12,1-3, ta biết rằng Mácta và
Maria, hai chị của Ladarô, ở tại Bêtania, một làng gần Giêrusalem.
- Maria
(39): Cô này cũng được xác định là em gái của Mácta trong Ga 11,1. Không được đồng hóa cô này với Maria Mácđala ở 8,2.
- ngồi
bên chân Chúa (39): Đây là tư thế của người môn đệ đang lắng nghe (x.
8,35).
- Chúa (39): Ngoại trừ c. 38
(không dùng tên “Giêsu” như trong Bản dịch CGKPV, mà dùng đại từ chủ ngữ
“Người” [autos]), trong những câu
sau, Đức Giêsu được gọi bằng danh hiệu “Chúa” (Kyrios). Như vậy, ở đây, chúng ta đang gặp một bài tường thuật có
chất liệu của mầu nhiệm Phục Sinh. Tác giả chuyển các độc giả vào kinh nghiệm
của cộng đoàn tín hữu về sự phục sinh của Chúa Giêsu.
- Cô tiến lại (40):
Động từ ephistêmi có nghĩa là “tự
trình diện”, “dừng lại bên cạnh”, “đưa mình ra trước”.
- giúp con một tay (40):
Động từ synantilambanô có nghĩa là
“cộng tác với”, dạng trung bình synantilambanomai
có nghĩa là “đến trợ giúp”, “cứu trợ”. Trong Tân Ước, động từ này chỉ được
dùng ở đây và ở Rm 8,46 nói về vai
trò của Chúa Thánh Thần.
- chị băn khoăn lo lắng
(41): Merimnâs do động từ merimnaô, “băn khoăn lo lắng”; thorybazô, “xáo trộn; mất sự thinh
lặng”. Thorybos, “sự ồn ào”; trong
Hy-ngữ hiện đại, thorybos là “xe cộ
giao thông”.
- Chỉ
có một chuyện cần thiết mà thôi (42): dịch sát: “Chỉ cần một điều mà
thôi”. Lời Đức Giêsu đáp lại yêu cầu của Mácta dường như lúc đầu nhằm trấn an
cô, bằng cách bảo cô rằng cô chỉ cần dọn một món thôi. Nhưng khi nghe
trọn câu nói của Đức Giêsu, ta mới hiểu ra rằng “một điều” không chỉ là
“một món” mà còn có ý nghĩa khác. “Một điều” đây chính là “phần tốt nhất”
(= lắng nghe lời Chúa). Và Đấng là thành phần của “phần tốt nhất” ấy bảo đảm là
Maria sẽ không bị lấy mất.
- phần (42): “Meris” có thể là phần lương thực, nhưng
ưu tiên dùng để chỉ phần gia tài, phần của cải.
4.- Ý nghĩa của bản văn
*
Phần tường thuật: Khung cảnh và các nhân vật (38-40a)
Chúng
ta vẫn đang ở trong chuyến đi lên Giêrusalem (x. 9,51). Đức Giêsu đã dừng lại
tại một làng kia (hẳn là Bêtania, nhưng tác giả không nêu tên, để khỏi gây một
nét thiếu hợp lý trong lộ trình của Đức Giêsu), để thăm gia đình những người
bạn thân. Các độc giả được mời chiêm ngưỡng Người không chỉ như là “Giêsu
Nadarét”, mà là “Đức Chúa Phục Sinh” (Kyrios).
Cô chủ Mácta đón Người vào và tất bật phục vụ. Còn cô em Maria thì cứ bình thản
ngồi bên chân Đức Giêsu mà nghe Người giảng dạy. Theo truyền thống của các kinh
sư, chỉ phái nam mới được ban cho những lời giảng dạy và những huấn thị; các
phụ nữ bị loại ra bên ngoài. Nhưng Đức Giêsu nhìn nhận các phụ nữ có cùng một
phẩm giá như phái nam, nên Người ngỏ
lời cả với phụ nữ. Ở đây tác giả đã không ngần ngại mô tả một người nữ như là
môn đệ ngồi bên chân Đức Giêsu. Thái độ của Đức Giêsu cũng khiến chúng ta nhớ
đến Cn 31,26.
“Cô
Mácta thì tất bật lo việc phục vụ” (c. 40a). Có hai từ nói lên tất cả lòng hiếu
khách của Mácta: hypodechomai, “đón
vào nhà mình” (c. 38b) và diakonia,
“sự phục vụ” (c. 40a, tăng cường bằng động từ diakonein ở c. 40b). Với những ý hướng tốt nhất và phù hợp với thói
tục thời đó, Mácta tất bật (periespato)
phục vụ người khách, nhưng sự bận bịu này đang sa sút thành sự phân tán. Vì bận
tâm phục vụ, cuối cùng cô lại không chăm sóc người khách.
*
Phần đối thoại: Mácta và Đức Giêsu (40b-42)
Bấy
giờ Mácta mới lên tiếng nhận định về Maria và về bản thân mình: thái độ của cô
rất tự tin, cô “đưa mình ra trước, cô tiến lại” (epistasa) mà nói: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy
không để ý tới sao?” (c. 40b). Lời trách của cô có lý, vì hoàn cảnh quá rõ: một
người khách quý vừa đến nhà. Phải làm mọi sự để đón tiếp người ấy cho chu đáo;
nhất là hẳn là còn cả đoàn môn đệ của Đức Giêsu nữa! Nhà chỉ có hai chị em; thế
mà Maria cứ để cho chị phải xoay sở một mình. Mácta có lý khi yêu cầu em
giúp mình. Tuy nhiên, một đàng Mácta nghĩ mình có lý đến độ dám gợi cho Đức
Giêsu cách thức cư xử (“Xin Thầy bảo nó giúp con một tay”), nhưng đàng khác,
dường như cô cũng hoài nghi về chính cô, dường như cô đang tự hỏi là phải chăng
cô đã can thiệp quá đáng (điều này được gợi ra bởi động từ rất mạnh, rất phong
phú, gắn kết chặt chẽ với ân ban Thánh Thần, là synantilambanomai, “cộng tác với”). Mácta can thiệp hầu như với vũ
lực, nhưng phong thái của cô dường như lại diễn tả một tình trạng yếu đuối cùng
cực. Điểm mấu chốt trong lời của cô được diễn tả bằng sự tương phản giữa “(phục
vụ) nhiều” (c. 40a: pollên diakonian)
và “một mình (con)” (c. 40b: monên me):
nhiều/phức tạp là việc phục vụ, còn một mình là Mácta. Khôi hài là Mácta can
thiệp vì nghĩ rằng Đức Giêsu cũng chia sẻ cái nhìn đó với cô, nhưng sự thật lại
không phải thế!
Mácta
có lý, nếu vấn đề là phải tiếp đãi người khách cho tươm tất. Nhưng nhận định
của Đức Giêsu khiến chúng ta phải tự hỏi: vấn đề phải chăng là như thế? Người
khách phải chăng chỉ muốn được tiếp đãi ân cần chu đáo? Đối với Người, điều gì
quan trọng nhất? Những câu hỏi này, Mácta không hề đặt ra cho mình. Ngay từ
đầu, hầu như là do thói quen, cô tưởng là mình biết tình thế cần cái gì. Không
hề tự hỏi là người khách thật sự muốn gì, cô áp đặt cho người khách ấy điều cô
nghĩ là hợp lý hơn, cần thiết hơn, vào lúc này. Chắc chắn Mácta có hảo ý. Nhưng
cô không mấy quan tâm đến các sở thích và ý hướng của người khách. Đức Giêsu
giúp cô hiểu rằng trước tiên Người không muốn được đón tiếp, không muốn được
phục vụ. Sau này Người sẽ nói: “Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ”
(22,27). Ở đây, Đức Giêsu đang muốn một điều hết sức quan trọng.
Đức
Giêsu hiểu, Người không trách mắng Mácta, Người trả lời bằng giọng khuyên dạy,
chứ không thân tình như thánh Âutinh nghĩ: “Mácta! Mácta ơi! Chị lo lắng và làm
ầm ĩ về nhiều chuyện quá” (c. 41). Mácta bị ngột ngạt vừa do các lo lắng về
trách nhiệm (merimnâs), vừa do thứ
tiếng ồn liên tục (thorybazô) không
cho cô sống trong thinh lặng, lại vừa do cô tự hào (epistâsa) về tất cả những chuyện cô đang sống, đang làm. Tất cả và
chuyện đó chỉ là tương đối, là phụ thuộc; trước tiên hãy tìm Nước Thiên Chúa
(x. 12,31), rồi tất cả những chuyện còn lại sẽ đến theo. Tìm kiếm Nước Thiên
Chúa cũng có nghĩa là trước tiên, tìm kiếm ân huệ Thánh Thần, tìm làm sao để
nhận được ân ban Lời Chúa, rồi các thứ khác sẽ đến sau. Chúng ta ghi nhận chính
Đức Chúa (Kyrios) trả lời Mácta. Ở
đây có một nét khôi hài: Mácta dùng mà không ý thức danh hiệu Kyrios mà bây giờ tác giả lấy lại với
sắc thái thần học để đưa lại nét long trọng và dứt khoát cho câu trả lời. Mácta
nại đến “Chúa” vì mong được Người yểm trợ, nhưng “Chúa” lại bác bỏ các chờ đợi
của Mácta. Mácta nói đến “việc phục vụ nhiều/phức tạp (pollê)”, nay Đức Giêsu nói đến “nhiều chuyện (polla): như thế, cô không chỉ bận bịu, mà là bị phân tán. Mácta
phản ứng do sự tương phản giữa “nhiều” và “một mình”, các lời của Đức Giêsu lấy
lại sự tương phản này, nhưng chuyển dịch sang sự đối lập giữa “nhiều chuyện (polla)” và “một chuyện (henos)”. “Một chuyện” này là gì? Phần
kết của bản văn sẽ cho biết.
Còn
Maria chỉ là em của Mácta, tức là được xác định trong tương quan với chị mình.
Maria ý thức về sự nghèo nàn, về tình trạng bất lực, về sự yếu đuối của mình. Cô chỉ còn có thể làm một việc:
ngồi bên chân Chúa mà lắng nghe Người dạy (c. 39). Đây là điều duy nhất cần
thiết và là điều luôn luôn đúng: lắng nghe Chúa. Đức Giêsu đến nhà Mácta và
Maria trước hết không phải để được đón tiếp vào bữa tiệc, nhưng là để được lắng
nghe. Với tất cả thiện chí, Mácta đã sao nhãng ý muốn này của Đức Giêsu. Chỉ có
Maria là đã gắn bó với điều Đức Giêsu muốn. Trước hết, Người muốn cống hiến,
chứ không muốn đón nhận. Trước hết, Người không muốn có một sinh hoạt
chuyên chăm cần cù, qua đó người ta chứng tỏ người ta luôn biết điều gì là đúng
và điều gì phải làm; nhưng Người muốn người ta suy nghĩ và ở yên để lắng nghe,
suy tư và để cho Đấng khác nói với mình điều thật sự quan trọng và điều thật sự
mình phải làm.
Thái
độ của Maria, nếu nhận định hời hợt, là giải pháp thoải mái, lười biếng, thật
ra lại là một sự chọn lựa (eklegomai).
Sự chọn lựa này phù hợp với cái nhìn của Thiên Chúa trong tương lai cánh chung
(“sẽ không bị lấy đi”): thái bị động thần học kết thúc bài tường thuật gợi ý
gián tiếp đến sự xét xử của Thiên Chúa.
+ Kết luận
Khi
viết 10,38-42, tác giả Lc không hề muốn phân biệt giữa đời sống tu trì
chiêm niệm và đời sống tu trì hoạt động, cũng không hề coi thường việc phục vụ
người khác. Ngài chỉ muốn nhấn mạnh đến “phần duy nhất cần thiết” là: làm môn
đệ Đức Giêsu, là lắng nghe giáo huấn của Người, để Người tiếp tục hướng dẫn.
Nhìn
lại ngữ cảnh rộng, chúng ta có thể cho rằng Lc đặt bản văn 10,38-42 ở
đây nhắm nêu bật giáo huấn của Đức Giêsu ở 10,25-37 (Điều răn lớn) như là đáng
để mọi người lưu ý, như là thuộc về “điều duy nhất cần thiết”, và như mạc khải
về Chúa Cha, Đấng mà không ai biết như Đức Giêsu, đồng thời để dạy rằng động
lực của mọi hành vi luân lý Kitô hữu phải tuyệt đối là giáo huấn của Đức Giêsu.
Chỉ nhờ nghe lời giáo huấn của Đức Giêsu, trong lòng người nghe mới phát sinh
tình yêu đối với người thân cận. Bản văn này còn cho thấy có những liên hệ đầy
ý nghĩa với lời giải thích dụ ngôn hạt giống/Lời Thiên Chúa (Lc 8,11-15): sự bận rộn thái quá của
Mácta khiến ta nhớ đến loại đất thứ ba (8,14), còn sự chọn lựa của Maria nhắc
nhớ đến mảnh đất tốt, tại đó Lời sẽ sinh hoa trái (8,15).
5.- Gợi ý suy niệm
1.
Đối với Mácta, tiếp khách là chuyện quan trọng nhất. Thường thường chúng ta gặp
nguy cơ bị thu hút bởi mối bận tâm đối với các nhu cầu vật chất, đối với đồ ăn
thức uống, chuyện ăn mặc, nhà cửa trú ngụ, những tiện nghi, và chúng ta dùng
hết năng lực và thì giờ cho những chuyện ấy. Dĩ nhiên, cần phải quan tâm đến
những điều ấy. Nhưng cũng phải thấy rằng chỉ lo chừng ấy chuyện thì chưa đủ.
Phải có một bậc thang các giá trị để đi theo.
2.
Các Kitô hữu cần thường xuyên xét lại hệ thống các xác tín và các thói quen của
mình để sẵn sàng điều chỉnh. Người tín hữu cần được thanh thoát, không bị ràng
buộc bởi những thói quen cá nhân, khuynh hướng hưởng thụ, mức sống. Không phải
chỉ đơn giản chấp nhận những gì môi trường chung quanh coi là thông thường, cần
thiết và đúng đắn, là đã đủ. Người Kitô hữu còn cần phải suy nghĩ về những gì
là thật sự cần thiết và đúng đắn. Đức Giêsu đặt việc lắng nghe lời Người vào
chỗ nhất. Như thế, Kitô hữu chúng ta cần có một thời gian yên tĩnh và
suy tư để cầu nguyện. Chúng ta cần phải thường xuyên lắng nghe Đức Giêsu và để
Người chỉ đường. Khi đó, chúng ta không được tránh né cố gắng và thậm chí đau
khổ để có thể tái định hướng và thay đổi.
3.
Trong đời sống chung (cộng đoàn tu trì, gia đình, giáo xứ…), cần biết thường
xuyên đặt câu hỏi: “Những người khác đang muốn gì? Họ đang cần gì, ngoài những
của cải vật chất?”. Khi đó, hẳn là ta sẽ thấy rằng những người ấy đang đặc biệt
cần được chúng ta quan tâm và cần có thì giờ của chúng ta. Các em bé không chỉ
cần được ăn cái gì mà thôi. Các cha mẹ phải có giờ cho chúng, để chơi với
chúng, để trả lời những câu hỏi của chúng, để giúp chúng kể những kinh nghiệm
của chúng. Những người cao tuổi cũng muốn xin chúng ta có thì giờ cho họ, muốn
chúng ta lắng nghe họ, chúng ta hiệp thông vào các suy tư, các mối bận tâm, và
cả những kỷ niệm của họ. Những người thợ trong một hãng xưởng không chỉ
cần một đồng lương hậu hĩ; họ cũng cần được quan tâm và nhìn nhận, cần
một lời khen và một lời nói nhân ái. Giúp đỡ về vật chất mà thôi
thì chưa thỏa mãn được nhu cầu số một là có giờ cho nhau, lắng nghe nhau
trong kiên nhẫn và yêu thương và sống cho nhau.
4. Không nên dựa vào những nhận định của Đức Giêsu
mà chê Mácta. Dĩ nhiên, đến một lúc nào đó, Mácta sẽ ngưng việc bếp núc để lắng
nghe Đức Giêsu, cũng như đến một lúc nào đó, Maria sẽ ngưng việc lắng nghe Đức
Giêsu để tiếp tay với chị mà dọn cơm đãi khách. Nhưng nói như thế là đơn giản
cho rằng truyện này phản ánh một hoàn cảnh lịch sử chính xác với những đường
nét được tường thuật. Trong thực tế, truyện này là một mẩu sinh hoạt được cắt
khỏi khung cảnh thực tế để biến thành một dụ ngôn nói về việc ưu tiên lắng nghe
Lời Chúa. Đàng khác, theo Tin Mừng Luca,
và phải nói là theo truyền thống Kinh Thánh nữa, lắng nghe có nghĩa là tuân
giữ, là vâng phục. Ngày lễ thánh Mácta 29-7 chính là một cách cho thấy truyện
này như là một tấm huy chương duy nhất có hai mặt: một bên, ta có Maria, và bên
kia, ta có Mácta.
5. Trong
câu chuyện cô Mácta và Maria, chúng ta có được sự hướng dẫn để làm một
người Kitô hữu. Hãy lưu ý đến bối cảnh của câu chuyện, câu chuyện không xảy ra
trong Đền Thờ. Đức Giêsu đến thăm và giảng dạy ngay trong một gia đình. Thật
ra, hầu hết những hoạt động và việc giảng dạy của Đức Giêsu đều diễn ra ở bên
ngoài Đền Thờ. Đó là cuộc sống thường nhật của chúng ta, nơi đó ta tìm thấy,
học hỏi và có thể phục vụ Thiên Chúa. Chúng ta có xu hướng tạo ra sự phân chia
rạch ròi giữa “nơi thánh thiêng” và “chốn thế tục”. Đức Giêsu giảng dạy ngay
trong nhà cô Mácta và Maria, và đó cũng là nơi hai người phụ nữ này tìm thấy
những nghĩa vụ của người môn đệ phải thực thi, đó là: phục vụ và lắng nghe Lời.
Việc Đức Giêsu sửa lỗi cho cô Mácta không phải là một bản án, nhưng là một lời
mời gọi: trong lúc phục vụ, chúng ta cần được bén rễ trong Lời của Người.
Cũng
như cô Mácta, chúng ta có những mối bận tâm chính đáng thúc bách
hằng ngày. Chúng ta sẽ giống như cô Mácta nếu lo tiếp đón và phục vụ Chúa trong
nhà mình và những nơi khác nữa. Ta lại sẽ bắt chước như cô Maria một khi chăm
chú lắng nghe và tìm kiếm sự hướng dẫn phát ra từ môi miệng Thiên Chúa.
Chính
Đức Giêsu cũng bận rộn trăm bề. Bối cảnh câu chuyện hôm nay rất quan trọng.
Tình tiết câu chuyện về cô Maria và Mácta diễn ra sau dụ ngôn
người Samari Nhân hậu, câu chuyện nói về những việc tốt lành mà Đức Giêsu đã
dạy bảo với lời kết: “Hãy đi và làm như vậy”. Tiếp sau đó là phần lắng nghe và
học hỏi hôm nay. Ngay sau bối cảnh này, Đức Giêsu cầu nguyện và đáp ứng yêu cầu
của các môn đệ khi dạy các ông cầu nguyện với “Kinh Lạy Cha”. Hãy lưu ý tới
trình tự của những câu chuyện này: trước tiên là hướng dẫn cho việc phục vụ để
đáp ứng nhu cầu của người thân cận, và tiếp sau đó là việc dạy cầu nguyện.
Lm FX Vũ Phan Long, ofm