biẾt khôn
ngoan tiên liỆu
(Luca 16,1-13 – CN XXV TN - C)
1.- Ngữ cảnh
Với
chương 16, Tin Mừng Luca thêm vào những dụ ngôn và những lời nói khác
của Đức Giêsu. Tuy nhiên, trong khi đề tài của ch. 15 là niềm vui vì tìm lại
được những gì đã mất, trong ch. 16 này, đề tài là thái độ đối với của cải và
cách sử dụng chúng. Dù thế, vẫn có thể cho rằng đề tài mới này đã được báo
trước ở ch. 15 bằng truyện đứa con thứ phung phí của cải. Bây giờ, chúng ta có
hai dụ ngôn, Người quản lý bất lương (cc. 1-8a) và Ông nhà giàu với Ladarô (cc.
19-31), triển khai rõ ràng đề tài mới này. Ta cũng thấy có những lời Đức Giêsu
được gắn vào dụ ngôn thứ nhất (cc. 8b-13) và những lời khiển trách người
Pharisêu ham tiền (cc. 14-15). Chỉ có
hai lời không liên hệ đến đề tài, đó là lời nói về Lề Luật (cc. 16-17) và lời
nói về ly dị (c. 18).
Đàng
khác, dụ ngôn Người quản lý bất lương được dẫn nhập ở c. 1 bằng từ de
(“nhưng”) cùng với liên từ kai (“cũng”). Ngữ pháp xác nhận rằng khi de
được nối tiếp bằng kai, điều đó có nghĩa là bản văn sau này được liên
kết với bản văn trước đó[1].
Trong khi trong dụ ngôn Người cha nhân hậu, người con thứ không có phương tiện,
thì giờ và tự do để làm lại cuộc đời cho mình, và cũng không biết xoay trở thế
nào, trong bản văn 16,1-8a, dù không có phương tiện và thì giờ, người quản lý
vẫn có thể làm lại cuộc đời cho mình, khiến anh ta xứng đáng được khen
(16,8a).
Cho
đến nay, bài dụ ngôn Người quản lý bất lương này vẫn là một crux interpretum
(“thập giá của các nhà chú giải”). Để hiểu dụ ngôn và các áp dụng, điều chủ yếu
phải làm sáng tỏ là bản chất luân lý của hành động của người quản lý liên hệ
đến các biên nhận của các con nợ của ông chủ. Ý kiến vẫn được đa số chấp nhận
là người quản lý, đã bất lương trong quá khứ, khi làm thất thoát tài sản của
chủ, nay làm thêm một hành vi bất lương nữa khi sửa lại các biên nhận,
khiến tài sản của chủ càng hao hụt thêm. Nhưng nếu đây là ý nghĩa của bản văn,
ta khó mà hiểu được là vì sao ông chủ có thể khen ngợi người quản lý là khôn
khéo, và vì sao Đức Giêsu có thể rút từ cách hành động này một kết luận
chấp nhận được. Dĩ nhiên, về phương diện luận lý, ta có thể tách sự tiên liệu
và khôn khéo ra khỏi những phương diện khác của hành động của người quản lý.
Nhưng những phân biệt như thế thì không dễ nắm bắt đối với những tâm trí không
quen kiểu làm việc này, còn đám đông Kitô hữu thì hẳn là vẫn cảm thấy lúng túng
khi đọc thấy sự song đối Đức Giêsu thiết lập giữa người quản lý và các môn đệ
Người. Không lẽ Đức Giêsu, là người vẫn quen ngỏ lời với các con tim, lại thật
sự đề ra một dụ ngôn hàm hồ như thế trong một vấn đề đụng chạm
đến sự vô luân, bị mọi người phản đối?
Ngoài
ra, cứ cho đi là người quản lý đã giả mạo các biên nhận nợ, thì anh ta chỉ càng
làm cho hoàn cảnh của mình thêm trầm trọng, mà cũng chẳng giữ được kín, vì anh
sắp phải báo cáo sổ sách, với lại bản văn cho thấy là ông chủ biết rất nhanh
chuyện vừa xảy ra. Và cũng khó mà hiểu vì sao anh lại được khen là khôn khéo.
Nếu thế, dụ ngôn này nói về một hành động khó có thật.
Chúng
ta đừng quên rằng Đức Giêsu không hề đánh giá hành vi của người quản lý về mặt
luân lý, mà chỉ nói là anh khôn khéo thôi. Chính câu 8 gọi anh là “bất lương”,
nhưng đó là trong quá khứ, trước khi anh ta làm hành động được bài dụ ngôn kể
ra, còn hành động này không nhất thiết là bất lương (x. Dụ ngôn ông quan tòa
bất chính đã xử công bình cho bà góa: Lc 18,2-8). Xin coi trong phần chú
giải.
2.- Bố cục
Bản
văn có thể chia thành hai phần:
1) Dụ
ngôn Người quản lý bất lương (16,1-8a);
2) Ba
áp dụng của Dụ ngôn (16,8b-13):
a) Áp dụng 1 (cc. 8b-9),
b) Áp dụng 2 (cc. 10-12),
c) Áp dụng 3 (c. 13).
3.- Vài điểm chú giải
- một
người quản lý (1): Danh từ Hy Lạp oikonomos thường là một người
nô lệ sinh ra tại nhà chủ (x. St 15,3: ben bayit, “một người
con của nhà”; St 14,14: yelid bayit, “người sinh ra của nhà”),
nhưng không nhất thiết là như thế. Tại Paléttina, người quản lý không được trả
lương; anh toàn quyền thay mặt chủ để giao dịch làm ăn. Nếu anh ta biển thủ,
thì không có một hành vi pháp lý nào có thể giúp chủ thu hồi của cải cả;
ông chủ chỉ có thể phạt bằng cách trách mắng, tiết lộ hành vi bất lương của anh
ta để làm anh mất tiếng tốt, rồi thải hồi anh thôi. Sau khi đã biết quyết định
của chủ, người quản lý phải tính sổ, nhưng vẫn đại diện của chủ. Vì không có
lương, người quản lý có thể cho vay lấy lãi. Thật ra Luật Môsê cấm cho vay lấy
lãi (x. Xh 22,25; Lc 25,36; Đnl 23,20-21), nhưng người Do
Thái có cách xoay sở: người ta bảo là Luật nhắm che chở những người túng cực
khỏi bị bóc lột. Do đó, nếu chứng minh được là người vay mượn đã có một phần
của cải anh muốn mượn, và như vậy phần vay mượn không là cấp bách, thì có thể
lấy lãi. Chẳng hạn dầu và lúa (đó là lý do khiến hai thứ này được đưa ra làm ví
dụ ở đây): ai mà chẳng có đủ dầu để đốt một cái đèn? Ai lại không có đủ
lúa để làm một cái bánh? (Mishna). Ở đây, anh quản lý tha phần lãi (quá
đáng) để trả lại nguyên vốn cho chủ[2].
- tố
cáo (1): Động từ Hy Lạp diaballein thường có sắc thái vu
khống.
-
phung phí của cải (1): Động từ Hy Lạp diaskorpizein cũng được dùng trong
dụ ngôn Người con phung phá (15,13) để mô tả một cách sử dụng hoang phí
các của cải. Bản văn không nói rõ anh “phung phí của cải” trong những chuyện
gì.
- Một
trăm thùng dầu ô-liu (6): Danh từ Hy Lạp batos phiên âm từ tiếng Hípri bat,
“thùng” tương đương với khoảng 45 lít (theo sử gia Gioxép, một batos =
72 xestai Hy Lạp hoặc 72 sextarii Rôma).
-
viết năm chục (6): Câu này không có nghĩa là anh ta giả mạo số nợ người ta mắc
với ông chủ của anh. Điều này có nghĩa là con nợ hiện mắc nợ ông chủ chỉ năm
mươi thùng dầu, còn năm mươi thùng kia là hoa hồng của người quản lý. Như thế
số lãi là 50%. Bên Cận Đông những món nợ về lương thực thường có lãi cao như
thế thật.
- Một
trăm bồ lúa (NTT- 7; “Một ngàn
giạ lúa”: CGKPV): tức là một trăm
kor lúa. Từ Hy Lạp koros phiên âm từ từ ngữ Hípri kor,
tương đương với 10 bats, hoặc 450 lít (bên Hy Lạp có đơn vị đo lường medimnos
= 1,5 kor).
-
viết tám trăm (7): Trong trường hợp này, hoa hồng là 25% (trên tám mươi bồ/giạ
lúa). Lãi 1/3 hay 1/4 là chuyện bình thường.
- Và
ông chủ khen (8): Ho kyrios có thể hiểu là “Chúa (Đức Giêsu)” hay
“ông chủ”. Ở đây, ta hiểu là “nhà phú hộ kia” (c. 1) hay “ông chủ” (cc. 3.5).
Vì các lý do: (1) “Nhà phú hộ” rất có thể là một chủ đất thường xuyên đi
vắng, nên đã giao việc quản lý công việc làm ăn cho một người quản lý (oikonomos).
Anh này không phải chỉ là một người tôi tớ được đặt đứng đầu những tôi
tớ khác (như ở 12,42), mà là một nhân viên của ông chủ, được huấn luyện, được
tin tưởng và được giao quyền thay chủ. Anh này có thể hành động nhân danh chủ
trong những giao dịch: theo cách thông thường, anh này cho những người khác
mượn của cải của ông chủ với một phần hoa hồng hoặc lãi được cộng thêm
vào biên nhận; trong biên nhận này thường chỉ ghi số nợ, nghĩa là phần vốn cộng
với phần lãi. Đây là tập tục rất thông dụng bên vùng đông Địa Trung Hải, Ai Cập
dưới thời Hy Lạp và Rôma, Paléttina, Xyri, Átxyri, và Babylon.
Vậy tại sao ông chủ lại khen người
quản lý? Tuy không biết số hoa hồng người quản lý có được, chắc chắn ông chủ
biết là anh có làm theo thói tục lúc đó. Nhưng nếu người quản lý cố tình giả
mạo biên nhận, hẳn là khó mà cho rằng ông chủ lại khen anh. Ở đây, ông chủ khen
người quản lý là vì thấy anh khôn khéo, vì thấy anh này chấp nhận loại bỏ phần
hoa hồng khỏi những biên nhận trước đây, trong đó có phần cho vay nặng lãi. Như
thế, anh đã biến những con nợ của chủ thành người chịu ơn anh, mà không làm
thiệt hại gì đến chủ.
- con
cái ánh sáng (8): Đây là một cách gọi các môn đệ Kitô hữu (x. 1 Tx
5,5; Ep 5,8; Ga 12,36).
- nơi
ở vĩnh cửu (9): dịch sát là “các lều vĩnh cửu”. Có lẽ hình ảnh này lấy từ
lễ Lều, vì lễ này được coi như một tiền ảnh của thời đại cứu độ (Dcr
14,16-21).
-
Tiền của bất chính (9): Danh từ mamonas là dạng hy-hóa của danh từ Hípri mamôn
hoặc danh từ Aram mamôna’. Cách giải thích hợp lý nhất là cho rằng
từ này là một dạng của ngữ căn ’mn, và có nghĩa là “điều mà người
ta đặt tin tưởng vào”, từ đó chuyển sang nghĩa là “tiền bạc, của cải”. Đây là
tiền của thủ đắc hợp pháp, tức theo luật lệ của loài người, nhưng hư hỏng dưới
cái nhìn của Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Dụ
ngôn Người quản lý bất lương (1-8a)
Bản
văn dường như mô tả một sự cố đã thật sự xảy ra. Người quản lý bị tố cáo là bất
lương, nhưng chúng ta không được biết đích xác trong chuyện gì. Chúng ta chỉ
biết là bây giờ, khi thấy hoàn cảnh của anh đã thành bấp bênh, vì ông chủ đã
quyết định sa thải anh, anh biết phản ứng nhanh và dứt khoát.
Người
quản lý biết rằng có nhiều người đang nợ chủ anh những món nợ kếch sù. Anh gọi
các con nợ đến, rồi hỏi người thứ nhất: “Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?” Người
ấy đáp: “Một trăm thùng dầu ô-liu”. Người quản lý bảo: “Bác cầm lấy biên lai
của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi”. Món nợ đã được giảm từ 4.500
lít dầu ô-liu xuống còn 2.250 lít, tương đương với tiền công nhật một năm.
Anh
ta gọi người thứ hai đang mắc nợ một trăm bồ lúa (tức một ngàn giạ lúa), tức là
khoảng 35 tấn (kết quả thu hoạch của hơn 42 mẫu ruộng tốt). Nay món nợ của ông
giảm xuống còn 80 bồ thôi, tức là bớt đi khoảng 7 tấn!
“Ông
chủ” (c. 8), dù là Đức Giêsu hay là ông phú hộ, đã khen ngợi sự khôn khéo và
sáng suốt của anh. Người ta vẫn giải thích hành vi anh ta hướng dẫn những người
làm biên nhận là một hành vi bất lương: thay vì bảo các con nợ viết đủ
số nợ thì lại bảo họ viết bớt đi. Trong thực tế, vào thời Đức Giêsu, các quản
lý không có lương, nên họ được phép lấy hoa hồng từ món nợ (25-50%). Như thế, ở
đây, người quản lý không làm thiệt hại cho chủ, nhưng chỉ bớt món hoa hồng lẽ
ra anh được hưởng. Anh hy sinh một món lợi nhuận ngắn hạn như thế để
mong được người ta tiếp đón lâu dài. Vì thế, anh ta mới được khen là sáng suốt
và biết khôn ngoan tiên liệu.
Cho
dù chọn cách giải thích nào, các độc giả vẫn phải nhớ điểm nhắm của dụ ngôn là:
sự thông minh của một người khi nhìn đến tương lai của mình, hoặc nói bằng ngôn
ngữ tôn giáo hơn, các chọn lựa thận trọng khi nhìn đến việc cứu độ bản thân.
Các môn đệ của Đức Giêsu cũng phải biết tận dụng thì giờ, phải hành động một
cách minh mẫn và khôn ngoan, phronimôs, nghĩa là với cái đầu. Đức
Giêsu bảo họ rằng họ có thể học được nhiều nơi các con cái thế gian trong việc
phân tích kỹ lưỡng hoàn cảnh, suy nghĩ chín chắn và có một cách ứng xử
thích hợp.
* Ba
áp dụng của Dụ ngôn (8b-13)
Thế
rồi Đức Giêsu đã chuyển từ ngôn ngữ kinh tế của dụ ngôn sang ngôn ngữ phù hợp
với Do Thái giáo. Ba áp dụng chứng tỏ cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đã sớm mặc
cho dụ ngôn một bộ áo luân lý. Cả ba thuộc về những ngữ cảnh khác nhau
Áp
dụng thứ nhất (cc. 8b-9) mang màu sắc Sêmít rõ ràng, có lẽ có một bối
cảnh Paléttina, với những thuật ngữ “con cái thế gian” , “con cái ánh sáng”,
“Tiền Của bất chính”, “nơi ở vĩnh cửu”. Áp dụng này đặt con cái thế gian ngang
hàng với người quản lý (c. 8a). Do sự “khôn khéo” của họ, họ hơn các “con cái
ánh sáng”, tức các môn đệ của Đức Giêsu, trong cách dàn xếp với thế hệ này. Như
thế, các Kitô hữu có thể học được điều gì đó từ sự khôn khéo của họ. Câu 8b là
một lời bình tổng quát hóa về kết luận của bài dụ ngôn, nhấn mạnh trên
sự khôn khéo trong đời sống Kitô hữu. Câu 9 nêu ra khía cạnh cánh chung của lời
khuyên. Các Kitô hữu phải khôn khéo trong cách sử dụng của cải vật chất, bây
giờ được gọi là “tiền của bất chính”, để tạo lấy những bạn bè sẽ đón họ vào nơi
cư ngụ vĩnh cửu. Như vậy, quyết định khôn khéo của người quản lý (c. 4) được
ẩn-dụ-hóa để trở thành một khuyến khích sử dụng khôn khéo của cải vật
chất.
Áp
dụng thứ hai (cc. 10-12) rút một bài học từ bài dụ ngôn như là một toàn
thể và hệ quả về cách quản lý có trách nhiệm. Khía cạnh cánh chung của c. 9
biến mất, để nhường chỗ cho ý tưởng về trách nhiệm và sự trung tín ngày qua
ngày. Áp dụng gồm ba câu ở thể song đối đối nghĩa: câu 1 là câu tuyên bố (tương
phản giữa trung tín trong việc rất nhỏ và trung tín trong việc lớn); câu 2 và 3
ngắn hơn, là câu hỏi (tương phản giữa trung tín trong việc sử dụng những của cải
thông thường và những của cải chân thật; tương phản giữa việc sử dụng của cải
của người khác và của cải của chính mình). Như thế, cả ba tương phản tóm tắt
vai trò của sự trung tín trong đời sống Kitô hữu.
Áp
dụng thứ ba (c. 13) được đặt ở đây do từ móc “tiền của” ở cc. 9,11 và 13d. Áp
dụng này không liên hệ với bài dụ ngôn, nhưng tóm một thái độ tổng quát
đối với của cải. Có thể nói áp dụng này bình luận cc. 10-12 dể đưa ra câu hỏi
cho Kitô hữu: Anh em muốn phục vụ ai?
+ Kết
luận
Bài dụ ngôn không lưu ý về bản tính
độc hại của của cải, cũng không chuẩn nhận cho sự bất lương của người quản lý
(cc. 1-2), hoặc chuẩn nhận cho việc anh ta giả mạo các biên nhận khiến gây
thiệt hại cho chủ. Câu chuyện nhắm đến sự khôn khéo của ngưởi quản lý biết cách
sử dụng phần của cải thuộc về mình để lo cho tương lai. Như thế, “người quản lý
bất lương” trở thành điển hình cho các Kitô hữu về sự sáng suốt, khôn khéo.
Đứng trước một tình trạng khủng hoảng do sự bất cẩn và những lầm lạc
trong phán đoán thuộc quá khứ, anh biết khôn ngoan đánh giá tình hình và xoay
sở hợp lý. Các Kitô hữu cũng đang phải đối diện với đòi hỏi của Nước Trời đang
đến, nên cũng cần biết sử dụng của cải để có thể ứng phó với hoàn cảnh này.
Với ba áp dụng thêm vào, bài dụ ngôn
đưa tới chỗ khuyến cáo các Kitô hữu phải biết sử dụng của cải với tinh thần
trách nhiệm và để phục vụ hạnh phúc của người khác.
5.- Gợi ý suy niệm
1.
Đức Giêsu đã đến như ánh sáng thế gian. Ai theo Người, thì có ánh sáng, với
điều kiện phải để cho ánh sáng hướng dẫn. Muốn sống như là “con cái ánh sáng”,
các môn đệ Đức Giêsu phải để cho Người hướng dẫn. Các môn đệ Đức Giêsu thỉnh
thoảng phải nghĩ đến tương lai của họ, để không bị bắt chợt mà trắng tay. Họ
phải quan tâm không những đến tương lai gần, mà cả tương lai ở bên kia cái chết.
Đó là nhắm đạt được những “cái lều vĩnh cửu”, tức sống hiệp thông bền vững với
Thiên Chúa. Tương lai ấy, người ta đạt được hay bị mất, là do cách hành động
trong hiện tại. Tương lai này, Đức Giêsu giúp các con cái ánh sáng đạt được,
nhưng họ phải chuẩn bị bản thân bằng một cách sống biết tiên liệu. Chính
họ cũng phải biết sử dụng của cải vật chất cách khéo léo và sao cho có thể đảm
bảo tương lai, nhờ biết tạo cho mình những bạn hữu. Họ phải chứng tỏ họ là
những người quản lý được tin cậy và trung tín trong những điều nhỏ nhất. Họ chỉ
đạt được như thế nếu họ phục vụ Thiên Chúa chứ không phải tiền của.
2.
Các Kitô hữu sống như “con cái ánh sáng” là có trái tim thuộc về Thiên Chúa.
Ngài phải là Đức Chúa mà họ yêu mến và họ hướng tới. Chỉ khi đã khởi đi từ một
quan hệ như thế với Ngài, họ mới có thể có một tương quan đúng đắn
với của cải trần thế và là tương quan bảo đảm tương lai cho họ. Ai nhìn nhận
Thiên Chúa là Chúa tể thì cũng nhìn nhận Ngài là Chúa tất cả của cải vật chất
và biết rằng bản thân mình không phải là chủ tuyệt đối các của cải đó, nhưng
chỉ là người quản lý.
3.
Một người quản lý lệ thuộc chủ mình và chịu trách nhiệm trước mặt chủ. Anh
không điều hành một của cải của riêng anh, nhưng một của cải của
người khác, của cải được Thiên Chúa ký thác. Anh là người trung tín và đáng tin
nếu anh biết đi theo ý muốn của chủ mình, chứ không cư xử theo tính ngẫu hứng.
Tất cả các ý tưởng của anh phải nhắm đảm bảo sao cho chủ không bị thiệt hại gì
cả, không có gì xảy ra ngược ý muốn của chủ. Qua tương quan với các của cải của
chủ, người quản lý chứng tỏ giá trị của tương quan của mình với chủ. Như thế,
các của cải trần thế đã được ký thác cho chúng ta là để thử lòng chúng ta. Như
những người quản lý, qua các của cải ấy, chúng ta phải chứng tỏ tương quan của
chúng ta với Thiên Chúa; chúng ta phải chứng tỏ lòng trung thành và khả tín của
mình.
4.
Chúng ta chứng tỏ mình biết sử dụng đúng đắn các của cải khi biết dùng của cải
mà tạo cho mình những bạn hữu, do dùng của cải mà phục vụ người thân cận. Các
của cải không được ban cho chúng ta để chúng ta hưởng thụ cách ích kỷ, nhưng là
để chúng ta dùng trong chiều hướng nhắm đến tương lai, thể theo ý muốn của
Thiên Chúa. Đức Giêsu nói đến của cải vật chất, nhưng điều Ngài nói cũng có giá
trị cho mọi thứ của cải trần thế khác, như các khả năng tinh thần, các tài
năng, kiến thức, học vấn… Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta phải sáng suốt và biết
tiên liệu. Như thế, không thể phung phí của cải trần thế vào việc hưởng thụ
trong hiện tại. Đàng khác, ai cho rằng mình có quyền bố trí các của cải theo ý
mình, là sai lầm. Chúng ta được liên kết trước tiên vào Chúa. Chúng ta không
phải là chủ nhân tự trị, nhưng chỉ là những quản lý các của cải của chúng ta.
Và của cải được trao vào tay chúng ta là để chúng ta dùng mà phục vụ anh chị
em. Chỉ khi đó, chúng ta mới đảm bảo được tương lai của mình.
5.
Theo hình ảnh Đức Giêsu sử dụng, thời gian là khoảng khắc chọn lựa đối với mỗi
một môn đệ. Thời gian không phải chỉ là những giây phút qua đi, nhưng là khoảng
khắc cứu độ, cơ hội Thiên Chúa ban cho con người để cứu lấy chính mình. Đức
Giêsu không có ý rao giảng rằng con người tự cứu lấy chính mình nhờ tài kháo và
sức riêng, bởi vì ơn cứu độ hoàn toàn là ân sủng Thiên Chúa ban. Nhưng cũng
đúng là con người phải lãnh trách nhiệm trong việc tận dụng những gì mình nhận
được mà bảo đảm lấy ơn cứu độ.
Lm FX Vũ Phan Long, ofm
[1] F. Blass
– A. Debrunner, Grammatica del
greco del Nuovo Testamento (Paideia, Brescia, 19972, § 447 I,
d).
[2] Xem J.D.M. Derrett, Law in the New Testament (London 1970) 48-77; « “Take Thay Bond … and Write Fifty” (Luke xvi,6): The Nature of the Bond » (JTS 23 [1972]) 438-440; P.W. Pestman, “Loans Bearing No Interest”, Journal of Juristic Papyrology, 16-17 (1971) 7-29.