đỨc vua
cũng là đÂng cỨu thẾ chỊu đóng đinh
(Luca 23,35-43 – Đức Kitô, Vua Vũ
trụ - C)
1.- Ngữ cảnh
Đây
là đoạn văn trích từ bài tường thuật của tác giả Luca về cuộc Thương Khó
của Đức Giêsu. Trong bản văn này, Đức Giêsu đã đến điểm chung kết số phận Người;
cuộc “xuất hành” của Người (9,31) đi từ cuộc đời này đã đưa Người đến chặng
cuối này. Người đã bị đóng đinh tại nơi gọi là “Cái Sọ” giữa hai tên gian phi
(23,33). “Quyền lực tối tăm” (22,53) đã khép lại trên Người. Bây giờ, đến lúc
các thủ lãnh và lính Rôma sỉ vả Người. Nhưng cũng trong tình cảnh này, Người
được chính thức gọi là “vua dân Do Thái”.
Tiếp
nối cảnh tang thương này, là một bản văn chỉ có trong TM III: một tên gian phi nhục mạ Người, nhưng tên kia đã
mắng lại vì nhận biết sự vô tội của Đức Giêsu và xin Người nhớ đến anh. Đức
Giêsu đã ban một lời hứa thật đẹp.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Dân chúng, các thủ lãnh và lính
tráng đối với Đức Giêsu (23,35-38);
2) Hai tên gian phi đối với Đức Giêsu
(23,39-43).
3.- Vài điểm chú giải
- Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo
(35): Theo thói quen của ngài, tác giả Lc không trích nguyên văn bản văn
Kinh Thánh, nhưng bản văn thánh vẫn bàng bạc trong bài tường thuật. Ở c. 35
này, chúng ta có thể nhận ra Tv 22,8
LXX[1]:
“Hễ thấy (theôrountes) tôi là họ nhạo cười (exemyktêrisan), họ
trề môi, họ lắc đầu” (NTT), vì Lc
23,35 dùng lại hai động từ này: “Dân chúng đứng nhìn (theôrôn), còn các
thủ lãnh thì buông lời cười nhạo (exemyktêrizon)”. Bằng cách này, tác
giả cho thấy là quang cảnh này lại hoàn tất Kinh Thánh cách bí nhiệm.
-
Đấng Kitô của Thiên Chúa, người được Chúa tuyển chọn
(35): “Đấng Kitô của Thiên Chúa” là danh hiệu vương giả; “người được Chúa tuyển
chọn” là danh hiệu của Đấng Mêsia.
- đưa
giấm cho Người uống (36): Oxos (do tính từ oxys, “cay”) được dùng
trong vùng đông Địa Trung Hải thời cổ. Đây là một thứ rượu chua, hoặc
cay, khác với oinos là rượu ngọt. Ta không rõ vì sao người ta lại cho
Đức Giêsu uống thứ rượu này, chỉ biết là Lc đã bỏ đi thứ “rượu pha mộc
dược” nhằm giảm đau (esmyrnismenon oinon) trong Mt 15,23.
- Nếu
ông là vua dân Do Thái (37): Câu này gợi ý tới lời quan Philatô
hỏi Đức Giêsu (23,3) cũng như tới tấm biển ghi bản án trên thập giá (23,38).
-
Chúng ta chịu như thế này là đích đáng (41): Tên gian phi thứ hai
nhìn nhận tội mình, và như thế là mặc nhiên diễn tả tâm tình metanoia
(hoán cải) trước nhan Thiên Chúa.
- hôm
nay, anh sẽ được ở với tôi (43): “Hôm nay” đây không phải là “ngày
đóng đinh theo lịch”, nhưng là ngày “ơn cứu độ thiên sai được ban”, đặc biệt
nhờ cái chết của Đức Giêsu.
-
thiên đàng (43): Danh từ Hy Lạp paradeisos lấy từ tiếng Ba Tư cổ (pairidaêza)
được dùng ba lần trong Kinh Thánh với nghĩa là một khu vườn có cây cối (Dc 4,13; Nkm 2,8; Gv 2,5). Bản LXX
đã dịch “khu vườn” ở Êđen là paradeisos (St 2,8.9.210.15.16; 3,1…). Người Do Thái diễn tả thế giới bên kia
bằng những công thức liên hệ đến không gian: “sheol” hoặc nơi cư ngụ của
tất cả những người đã chết, “lòng Abraham” hoặc “thiên đàng”, là
nơi mà những người công chính quây quần quanh các tổ phụ mà chờ đợi được nhận
vinh quang trọn vẹn vào lúc tận thế.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Vào lúc Đức Giêsu chào đời,
thần sứ Chúa đã loan báo: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong
thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2,11). Như thế, ngay từ khi mới xuất hiện, Đức Giêsu đã có một
nhiệm vụ lớn lao. Ngay từ đầu, câu hỏi này đã được nêu ra: Đức Giêsu sẽ
thực hiện nhiệm vụ này như thế nào? Người có ở ngang tầm với mọi tình cảnh bần
khốn của con người chăng? Phải chăng Người là Đức Kitô, là Đức Vua vĩnh viễn
được Thiên Chúa sai phái đến, để đưa lại ơn cứu độ trọn vẹn?
Câu hỏi này được đặt ra hết
sức trầm trọng sau khi Đức Giêsu bị đóng đinh, không phải là đặt ra trên bàn
giấy, trong cuộc tranh luận, nhưng được ném ra cho Đức Giêsu đang ở trên thập
giá, giữa hai tên gian phi. Toàn bản văn được đặt dưới dấu chỉ là “đức vua”, có
khi là đối tượng cho người ta mỉa mai (cc. 35-39), có khi là đối tượng cho
người ta tin tưởng để rồi được ban thưởng (cc. 40-43).
* Dân
chúng, các thủ lãnh và lính tráng đối với Đức Giêsu (35-38)
Trước tiên, có đoàn dân chúng. Họ có
vẻ không hiểu những gì đang xảy ra. Rất có thể họ đang tự hỏi làm thế nào mà
con người đã không kháng cư lại cái chết lại có thể là đức vua bao đời mong đợi
và nếu Người là vị vua ấy, tại sao Thiên Chúa không cứu Người? Chúng ta biết
tác giả Lc vẫn có thiện cảm với những
người nghèo nhất, những người cùng rốt. Ngài cho thấy dân chúng đứng lặng thinh
và cho biết rằng họ không chịu trách nhiệm về cái chết của Đức Giêsu. Một vài
câu sau, ngài sẽ nhận xét: “Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy,
khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về” (c. 48). Những con người này
có thể đại diện cho tất cả những người có thiện chí đang muốn hiểu được chương
trình của Thiên Chúa, nhưng không thể được, vì những người có thể soi sáng cho
họ đều mù quáng và không ý thức về điều dữ họ đang làm.
Dưới
chân thập giá, cũng có các nhà lãnh đạo, các đối thủ của Đức Giêsu, những người
chịu trách nhiệm về cái chết của Người. Bây giờ họ chỉ còn có thể chế nhạo
Người về biết bao tự phụ và điên rồ mà Người đã chứng tỏ trước đây thôi. Một kẻ
đã bị buộc phải đi đến thập giá và bị người ta làm cho mình tất cả những gì
mình không muốn, có thể nào lại là Đức Vua Cứu thế được Thiên Chúa gửi đến?
Đáng giá gì một Đức Kitô mà đến việc cứu chính mình khỏi chết cũng không
làm nổi? Nếu ý đồ của hắn ta là thật, hắn chỉ việc chứng minh ngay bây giờ đi!
Câu nói chế nhạo sau đây trở đi trở
lại như một điệp khúc: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi”;
“Nếu ông là Đấng Kitô thì hãy chứng tỏ sức mạnh của mình đi!”. Các lời này, các
thủ lãnh nói ra để sỉ vả Người. Thật ra, khi vừa bắt đầu sứ vụ, Đức Giêsu đã bị
Satan cám dỗ như thế (4,3), rồi tại Nadarét, Người cũng đã bị yêu cầu như vậy (4,23);
nay là tại chặng chót của hành trình trần thế.
Còn
một nhóm thứ ba có mặt là toán lính. Họ cũng là những người nghèo, nên vì một
ít tiền bạc, có thể dùng vũ lực để áp đảo những người có lối ăn nói, thói tục
và tôn giáo khác họ. Họ có tội, nhưng họ cũng là nạn nhân của sự điên rồ của
các sĩ quan của họ; họ phải vâng lệnh. Họ đóng kịch như dâng rượu lên đức vua,
để chế nhạo Người. Ngay cả tấm biển ghi bản án, “Đây là vua dân Do Thái”, thật
ra là một cái nhãn hiệu đầy mỉa mai do quan Philatô tạo ra (x. Ga 19,15.19.22). Tên gian phi thứ nhất
cũng yêu cầu được cứu với giọng cay độc. Thập giá đặt một dấu chấm hỏi
to lớn trên tất cả công trình trước đây của Đức Giêsu. Thập giá dường như đã
bác bỏ cao vọng của Người. Một con người đã bị đóng cứng trên thập giá và sắp
chết thì còn có thể giúp đỡ ai? Trong bầu khí đen tối này, chi tiết: “Toàn thể
dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm
ngực trở về” (c. 48), là chi tiết đầy an ủi và hy vọng.
Trước
tất cả những lời sỉ nhục và thách thức đó, Đức Giêsu không trả lời một tiếng
nào.
* Hai
tên gian phi đối với Đức Giêsu (39-43)
Một
tên gian phi cũng cùng với tập thể kia hòa lời mỉa mai sỉ nhục Đức Giêsu. Thế
nhưng tên gian phi thứ hai lại trách bạn mình. Anh nhìn nhận tội lỗi mình và
nhìn nhận cái chết thập giá dành cho mình là xứng đáng, nhưng anh tuyên bố Đức
Giêsu vô tội. Chẳng những thế, anh còn công nhận rằng con người bị đóng đinh và
bị chế giễu này, con người không xuống khỏi thập giá dù bị thách thức, chính là
Đức Vua Cứu thế. Anh đã diễn tả lòng tin vào Đức Giêsu như Đấng Mêsia vương giả
bằng lời thỉnh cầu: “Khi vào Nước của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi”; lòng tin này
được bày tỏ với một tình yêu đặc biệt qua lời kêu cầu rất thân thương:
“Giêsu ơi!”. Anh ta không xin Đức Giêsu cứu cho khỏi chết, vì anh chấp nhận cái
chết như là hình phạt đích đáng. Nhưng anh xác tín rằng Đức Giêsu không chấm
dứt cuộc đời với cái chết, mà qua cái chết, Người sẽ đi vào trong vương quốc
Người. Anh tin rằng Đức Giêsu cứu người ta không phải chỉ là khỏi cái chết,
nhưng là đưa sang bên kia cái chết. Như thế, câu viết trên bản án đầy vẻ bôi
bác, “Đây là vua dân Do Thái”, lại đạt được nội dung đích thực: Đức Giêsu đúng
là Vua Cứu thế; Người đi vào vương quốc của Người và đưa vào đó tất cả những ai
tín thác nơi Người.
Với
anh gian phi này, Đức Giêsu trả lời: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở
với tôi trên Thiên Đàng”. Qua câu nói này, Người cho hiểu rằng, với cái chết,
Người sẽ đi vào trong sự hiệp thông viên mãn với Thiên Chúa; nhưng cũng cho hiểu
rằng chính Người quyết định ai sẽ vào đó với Người: chính Người bố trí để đưa
người ta đi vào hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa.
+ Kết
luận
Tất
cả những điều xảy ra trên Núi Sọ hôm ấy có thể được nhìn theo theo nhiều quan
điểm: đối với các thủ lãnh, đây là một thành công vì họ đã trừ khử được
một kẻ lâu nay cứ ngáng đường họ. Đối với dân chúng, dường như họ còn
chờ đợi để hiểu rõ biến cố này hơn. Nhưng đối với tác giả Lc khi suy gẫm
về câu chuyện này, thì đây là chương trình của Thiên Chúa được ghi trong Kinh
Thánh nay đã hoàn tất.
Ngoài
ra, tư cách “Vua” của Đức Giêsu, điều mà các thủ lãnh và lính tráng đưa ra làm
trò cười bởi vì họ chỉ đầy ứ sự căm hờn và mỉa mai, lại đã được khẳng định tích
cực khi người gian phi thứ hai lấy đức tin nhìn nhận Người và được Người hứa
cho vào thiên đàng, “Nước của Ngài”. Cho đến chết, Người vẫn là Đấng cứu độ
những người tội lỗi.
Chúng ta ghi nhận trong mỗi phân đoạn
có một cảnh đối lập:
- Trong phân đoạn 1: Trong khi dân
chúng đứng nhìn (rồi họ sẽ hoán cải: c. 38), các thủ lãnh và lính tráng lại chế
giễu Đức Giêsu;
- Trong phân đoạn 2: Trong khi tên
gian phi thứ nhất nhục mạ Người, tên gian phi thứ hai lại tin tưởng trao phó
cuộc đời cho Người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Ra
sức làm một hành vi vĩ đại, thì đã chứng tỏ mình đáng được nể trọng. Nhưng im
lặng thản nhiên, khi bị người ta khinh bỉ, sỉ nhục, bôi nhọ, thì càng chứng tỏ
mình có tâm hồn cao thượng và đáng nể trọng hơn. Đức Giêsu đã chứng tỏ như thế,
nhất là khi Người lại là chính Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa, và các kẻ đang
nhao nhao sỉ nhục Người chỉ là những thọ tạo của Người. Đấy là bài học cho các
Kitô hữu mỗi khi cảm thấy mình không được tôn trọng đủ.
2.
Bản văn nói lên sự mỉa mai của loài người trước Đức Giêsu bị đóng đinh, nhưng
cũng cho thấy có sự mỉa mai của Thiên Chúa đối với sự “khôn ngoan ranh mãnh”
của người đời: Chính khi họ tưởng họ thắng được Thiên Chúa thì họ lại thua vĩnh
viễn; chính khi công trình cứu độ có vẻ thất bại, thì lại thành công mỹ mãn.
3. TM Luca ghi lại biết bao người đã
tin tưởng đến với Đức Giêsu và đã trải nghiệm sự giúp đỡ và ơn cứu độ của
Người. Người thường bảo họ: “Đức tin của con đã cứu con” (7,50; 8,48; 17,19;
18,42). Cũng như người phụ nữ tội lỗi và như Dakêu, có những người đã đến với
Người từ tình trạng bị đẩy ra bên lề và đã được Người ban ơn hoán cải và ơn cứu
độ. Anh gian phi hoán cải là kết tinh của công trình cứu chữa này. Anh ở trong
tình trạng bị loại trừ tuyệt đối, anh nhìn nhận mình đáng phải chết đóng đinh,
nhưng anh cũng xứng đáng được Đức Giêsu áp dụng câu nói: “Đức tin của anh đã
cứu anh”. Anh đã tin vào Đức Giêsu, một con người bị đóng đinh như anh.
Do đó, anh đã được ban cho ơn cứu độ toàn vẹn.
4.
Đức Giêsu chịu đóng đinh là để cho thấy rằng Người không phải là một Đức
Vua Cứu thế sẽ đảm bảo cho họ có sự sung túc trần thế. Người đã không cứu chính
mình khỏi chết, thì Người cũng không gìn giữ chúng ta khỏi bệnh tật và cái
chết. Quyền lực của Người không nhắm đến đời sống thoải mái trần tục của chúng
ta, nhưng nhắm đến đời sống của chúng ta với Thiên Chúa. Ai tìm sự hiệp thông
với Thiên Chúa, và biết nhờ Đức Giêsu, Đức Giêsu sẽ cứu độ người ấy, cho dù
người ấy đến với Người như một tên gian phi.
Lm FX Vũ Phan Long, ofm