LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA BA NGÔI TRONG TRẦN GIAN
LỄ CHÚA BA NGÔI
(Cn 8,22-31; Rm 5,1-5; Ga 16,12-15)
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Hôm nay, phụng vụ Giáo
Hội mừng trọng thể mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Đây là mầu nhiệm mẹ trong tất
cả các mầu nhiệm.
Vì thế, mọi cử hành phụng
vụ đều hướng về mầu nhiệm này như là điểm quy chiếu, mấu chốt, cốt lõi phát
sinh mọi nguồn thiện hảo do lòng xót thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Trong lịch sử cứu độ,
mọi diễn biến của vũ trụ và con người từ khi tạo dựng trời đất, muôn vật, đến
thời Đức Giêsu xuống thế làm người, chịu chết, sống lại và lên trời cho đến khi
Chúa Thánh Thần hiện xuống tới nay, đều có sự hợp nhất trong mọi hoạt động của
cả Ba Ngôi.
Tuy nhiên, để cho dễ
hiểu, Giáo Hội hướng về Chúa Cha là Đấng tạo dựng trời đất, muôn vật, muôn loài.
Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hóa trần gian. Qua đó, chúng ta dễ
dàng hiểu về sự hiệp nhất trong đa dạng của Ba Ngôi Thiên Chúa.
1.
Lòng thương xót của
Chúa Cha trong lịch sử cứu độ
Khởi đi từ công trình
tạo dựng: Kinh Thánh diễn tả tình trạng hỗn mang trước khi được Thiên Chúa chúc
lành. Sự trật tự chỉ có khi Người can dự, tác tạo cũng như phân chia vai trò và
phú bẩm đặc tính cho từng loài.
Đỉnh cao của công
trình tạo dựng ấy là việc sáng tạo con người giống hình ảnh Người. Người còn
cho con người vinh hạnh cộng tác vào công trình tạo dựng ấy qua việc tác sinh
và trông nom, canh tác “Vườn”. Đây là đặc trưng biểu lộ lòng thương xót của
Thiên Chúa.
Nhưng Tổ tông đã không
nghiệm được lòng thương xót ấy, nên đã kiêu ngạo, phản bội, bất trung với Thiên
Chúa. Vẫn một dạ thương xót, nên Người đã không bỏ mặc. Ngược lại, ngay lập tức,
Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Độ sẽ đến để chuộc những gì đã mất.
Cứ thế, trong suốt dọc
dài lịch sử thời Cựu Ước, Thiên Chúa luôn theo sát dân Người như hình với bóng
để xót thương con người cách đặc biệt. Vì thế, Người không màng chi đến những lời
than phiền, trách móc, bất trung, vô ơn, phản bội của họ.
Tình thương ấy không
phải trong khái niềm trừu tượng, nhưng nó được hiện tại hóa nơi những hành vi của
Người như: giải cứu dân thoát khỏi biết bao tai ương, hoạn nạn; đưa dân từ cảnh
nô lệ trở về Đất Hứa trong tư cách của người tự do; nuôi sống dân bằng “Bánh Bởi
Trời và Nước từ tảng đá vọt ra”. Người đã gửi nhiều vị trung gian đến để giải
thoát dân khỏi đau khổ thể xác, bình an tâm hồn, đồng thời dẫn dân đi trong đường
lối xót thương để được cứu độ.
Tuy nhiên, khi yêu
thương như vậy, lòng dạ Thiên Chúa vẫn chưa thỏa lòng, nên vào thời sau hết,
Người đã trao tặng cho nhân loại chính Con Một dấu ái của mình là Đức Giêsu, để
Ngài trực tiếp mạc khải trọn vẹn về lòng xót thương của Thiên Chúa cho nhân loại.
2.
Lòng thương xót của Đức
Giêsu nơi công trình cứu chuộc
Đến lượt Đức Giêsu,
Ngài đã đến trần gian như một người nghèo. Nghèo đến độ cha mẹ Ngài không đủ tiền
để thuê một phòng trọ cho đàng hoàng nơi đêm vắng hoang vu để Ngài hạ sinh. Cũng
chính cái nghèo này mà Ngài phải giáng trần trong hang bò lừa hoang vu giá lạnh.
Vì thế, những người biết đến để thờ lạy chẳng ai khác, họ cũng là những mục đồng
nghèo và những người xa lạ như ba nhà Chiêm Tinh.
Cuộc đời ấu nhi của Đức
Giêsu không được êm ả ngay từ lúc mới chào đời... nên chỉ ít hôm sau khi sinh, Ngài
đã phải cùng với cha mẹ mình chạy trốn sự tàn độc của con cáo già Hêrôđê gây
nên.
Trong suốt thời gian sống
tại gia đình nơi làng quê Nazaretz, Đức Giêsu sống bình thường giản dị như bao
người thời đó.
Hết thời gian ấy, Ngài
ra đi thi hành sứ vụ. Tuy là Con Thiên Chúa, Ngài cũng không dành cho mình những
đặc quyền, đặc lợi, nhưng vẫn sống tinh thần nghèo. Nghèo đến độ: “Con cáo có
hang, chim trời có tổ, con người...”. Ngài cũng không tìm đến với những người
mũ mão cân đai, lắm tiền nhiều bạc, quyền cao chức trọng trong dân. Ngược lại, luôn
“chạnh lòng thương” đến với những người cùng đinh của xã hội. Họ là những người
nghèo về tinh thần lẫn vật chất. Họ cũng là những người thấp cổ bé họng, luôn bị
áp bức, bóc lột... nên khi đến, Đức Giêsu đã giải thoát họ cả về tinh thần lẫn
thể xác... Vì thế, cái giá phải trả đó chính là sự phản bội của môn đệ, bị bắt
bớ, mạ lỵ, vu vạ, đánh đập và giết chết như một tử tội...
Như vậy, cả cuộc đời Đức
Giêsu, Ngài luôn làm lộ hiện lòng thương xót của Thiên Chúa trên nhân loại và từng
người, để con người hiểu được tâm tư, lòng dạ thương xót của Thiên Chúa, và
chính họ cũng biết thương xót như đã được xót thương...
Con đường ấy không kết
thúc khi Ngài trở về trời, nhưng đã được chuyển trao cho Chúa Thánh Thần, để
Người tiếp nối con đường thương xót của Thiên Chúa nơi các chứng nhân qua việc bảo
trợ và thánh hóa.
3.
Lòng thương xót của
Chúa Thánh Thần qua việc thánh hóa
Nói về thời của Chúa
Thánh Thần, chúng ta nghĩ ngay đến vai trò thánh hóa và bảo trợ Giáo Hội.
Người thánh hóa Giáo Hội,
để Giáo Hội như người mẹ, luôn trung thành với sứ mệnh xót thương nhân loại đã
được Đức Giêsu ủy thác. Đồng thời, luôn trở thành những sứ giả phản chiếu sự
trung thực của lòng thương xót Chúa đến với anh chị em. Ngõ hầu tâm tư của người
môn đệ được quyện hòa vào thao thức của Đức Giêsu, để những người tiếp bước
không bị rơi vào vòng luẩn quẩn của sự ác nhân, thất đức, cũng như những tiện
nghi sang trọng không phù hợp với đường thương xót của Thiên Chúa và những giá
trị Tin Mừng.
Bên cạnh đó, Chúa
Thánh Thần luôn biến đổi những con người khô khan, nguội lạnh, ác độc..., trở
nên những con người sốt sắng, đạo đức và nhân hậu...
Lòng thương xót ấy còn
được thể hiện qua việc Người luôn bảo vệ Giáo Hội khỏi biết bao nguy khốn đang
ngày đêm tấn công. Vì thế, Người luôn bào chữa, phù trợ, để giúp cho các chứng
nhân khôn ngoan trước những chất vấn về niềm tin và hy vọng của con người.
Có lẽ điều quan trọng
hơn cả, đó là Chúa Thánh Thần luôn thánh hóa để người muôn nước được hiệp thông
với nhau trong đức tin, đức cậy, đức mến. Để dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào,
Giáo Hội vẫn là một Giáo Hội hiệp nhất trong đa dạng theo khuôn mẫu của Thiên
Chúa Ba Ngôi.
Như vậy, Chúa Thánh Thần
luôn ở bên chúng ta như hình với bóng, như hơi thở, như ánh sáng..., để giúp
chúng ta yêu mến, tôn thờ Thiên Chúa cho phải đạo. Qua đó, chúng ta được hưởng
trọn vẹn lòng thương xót của Thiên Chúa.
4.
Tin Thiên Chúa là làm
cho lòng thương xót của Người được hiện tại hóa
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi
hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy yêu mến, cậy trông và tin thờ Chúa Ba
Ngôi hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực. Đồng thời biết quy hướng về Người
trong mọi chiều kích như là điểm khởi đầu và cùng đích của chúng ta.
Tuy nhiên, “đức tin không có việc làm là đức tin chết”,
vì thế, việc yêu mến, cậy trông và tin thờ ấy không chỉ dừng lại ở việc khấn
nguyện, kinh sách, lễ lạy... nhưng thiết nghĩ, trách nhiện của chúng ta là phải
làm cho hình ảnh của Thiên Chúa được hiện tại hóa trong cách ăn nết ở, để người
ta thấy cách sống của mình, họ nhận ra khuôn mặt và lòng dạ thương xót của
Thiên Chúa.
Những biểu hiện đó có
thể là: một nghĩa cử hiệp thông với những người bị áp bức, bóc lột, đối xử bất công...;
một đôi tai và trái tim nhạy bén với những dấu chỉ thời đại; một đôi tay nhân
ái, một đôi chân bước ra khỏi sự an toàn để đến với những trẻ em mồ côi, người
tàn tật, neo đơn; một ánh mắt cảm thông với những người tội lỗi, để tìm cách
đưa họ về nẻo chính đường ngay...
Khi lựa chọn những
hành vi đó, ấy là chúng ta đang làm cho đường thương xót của Thiên Chúa từ trời
đến với con người và làm cho con người được đi trong đường thương xót ấy để về
trời.
Lạy Thiên Chúa là Cha
và Con và Thánh Thần, xin xót thương và ban ơn cứu độ cho chúng con. Xin cũng
ban cho chúng con được trở nên chứng nhân của lòng thương xót Chúa trong cuộc sống
hằng ngày nơi xã hội hôm nay. Amen.