THẦN khí
SỰ thật
(Gioan 16,12-15 – Chúa Ba Ngôi - C)
1.- Ngữ
cảnh
“Sách về Giờ của Đức Giêsu” của TM Ga kéo dài từ ch. 13 đến ch. 20. “Diễn từ cáo biệt” (ch. 13–17)
là phân đoạn đầu tiên của “Sách” này. Chúng ta có thể xác định bố cục của phân
đoạn này như sau:
- Bữa ăn cuối cùng (13,1-30);
- Bài diễn từ (phần 1: 13,31–14,31):
a) Dẫn nhập (13,31-38),
b) Phân đoạn 1 (14,1-14),
c) Phân đoạn 2 (14,15-24),
d) Phân đoạn 3 (14,25-31).
- Bài diễn từ (phần 2: 15,1–16,33):
a) Phân đoạn 1 (15,1-17),
b) Phân đoạn 2 (15,18–16,4a): các môn đệ bị bách hại,
c) Phân đoạn 3:
* Đơn vị 1 (16,4b-15): Đấng Bảo Trợ [cc. 5-7; 8-11; 12-15],
* Đơn vị 2 (16,16-33).
- Bài diễn từ (phần 3: 17,1-26):
a) Phân đoạn 1 (17,1-8),
b) Phân đoạn 2 (17,9-19),
c) Phân đoạn 3 (17,20-26).
Đoạn văn chúng ta đọc hôm nay nằm trong phần hai, phân
đoạn 2 và đơn vị 1 của Diễn từ cáo biệt.
2.- Bố
cục
Bản văn Ga
16,12-15 có thể chia thành ba phần:
1) Câu chuyển tiếp (16,12);
2) Vai trò của Thần Khí (16,13-14);
3) Tương quan giữa Thần Khí với Chúa Cha và với Đức Giêsu
(16,15).
3.- Vài
điểm chú giải
- không
có sức chịu nổi (12): Dùng động từ
Hy Lạp bastazein ở đây cũng lạ. Động từ này thường được sử dụng trong
khung cảnh cuộc Thương Khó (19,17; x. Lc
11,46; 14,27; Gl 6,2.5). Bởi vì ý
tưởng căn bản là các môn đệ không thể hiểu, mà bastazein lại có
nghĩa là “nâng lên, mang, vác, chịu đựng”. Do đó, rất có thể câu nói muốn nói
là nhờ Thánh Thần, các môn đệ hiểu biết mạc khải, nhưng cũng tham dự vào cái
chết và cuộc tôn vinh của Đức Giêsu (x. 13,7.33).
- Thần
Khí sự thật (13): Danh hiệu này đã xuất hiện trong đoạn
văn đầu tiên nói về Đấng Bảo Trợ (14,17). Dịch sát là “Thần Khí của sự thật”
(“sự thật”, alêtheia ở thuộc-cách). Trong tư tưởng Ga, thuộc-cách này chỉ đối tượng: Thần Khí truyền đạt sự thật, cho
dù cũng có thể hiểu là một thuộc-cách đồng-chức-ngữ (apposition)
(x. 1 Ga 5,6 [7]: “Thần Khí là sự
thật”). Ở đây, câu văn không mô tả yếu tính hay hữu thể của Thần Khí.
- Người
sẽ loan báo (13): Động từ anangellein, “loan
báo, khai mở, tuyên bố”, xuất hiện ba lần trong các chương 13–15. Ý nghĩa chung
của động từ này là “nói lại những gì đã được nói rồi” (ngoại trừ Ga 4,25), bởi vì tiếp đâu ngữ ana-
có giá trị như tiếp đầu ngữ re- trong tiếng Anh (re-announce,
re-proclaim). Bản LXX, đặc biệt sách Isaia,
cũng dùng động từ này theo nghĩa ấy (x. Is
42,9; 44,7; 45,19; 46,10).
- tới sự thật toàn vẹn (13): Trong câu văn hodêgêsei
hymas en tê alêtheia pasê, en + tặng-cách cho hiểu rằng đây không
phải là đạt tới một chân lý mới, một chân lý vượt quá chân lý thuộc mạc khải
của Đức Kitô. Trái lại, đây là nghĩa trọn của chân lý cũng là bản thân Đấng mạc
khải.
- những điều sẽ xảy đến (13): Phải chăng sẽ có một mạc khải mới? Thật ra,
dựa vào ý nghĩa của anangellein và chiều hướng cánh chung học đã thể
hiện của TM IV, có thể nói rằng “loan
báo những điều sẽ xảy đến” có nghĩa là giải thích cho mỗi thế hệ thấy những gì
Đức Giêsu đã nói và đã làm có một ý nghĩa cho họ hôm nay.
- Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy (15): Trong thần học về Chúa Ba Ngôi,
câu này đã được dùng để chứng minh rằng Chúa Con có cùng một bản tính với Chúa
Cha; nhưng ở đây tác giả Ga đang nghĩ
đến mạc khải được thông ban cho loài người.
4.- Ý
nghĩa của bản văn
Chương 16
(cũng như ch. 14 là bản văn đầu tiên nói đến Đấng Bảo Trợ) nói đến vai trò của
Đấng Bảo Trợ như là thầy dạy các môn đệ.
* Câu chuyển tiếp
(12)
Câu 12
chuyển sang vai trò của Đấng Bảo Trợ là giảng dạy. Đức Giêsu muốn nói gì khi
tuyên bố là Người còn nhiều điều phải nói, nhưng vào lúc này, các môn đệ không
có sức chịu nổi? Phải chăng Người có ý nói là sẽ có những mạc khải mới sau khi
Người chết? Tuy nhiên, Ga 15,15 dường
như loại trừ những mạc khải mới: “Tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của
Thầy, Thầy đã cho anh em biết”. Câu 12 cũng theo một chiều hướng như
vậy: chỉ sau khi Đức Giêsu sống lại, các môn đệ mới hiểu được trọn vẹn những gì
đã xảy ra và đã được nói trong thời gian Đức Giêsu hoạt động (x. Ga 2,22; 12,16; 13,7). Lời hứa ban cho
các môn đệ hiểu sâu hơn có thể được diễn tả bằng câu “Thầy còn nhiều điều phải
nói với anh em”, bởi vì Đức Giêsu sẽ tác động trong và qua Đấng Bảo Trợ mà
thông ban sự hiểu biết này. Khó mà có thể khẳng định rằng trong TM IV, có ý tưởng về một sự mạc
khải khác nữa sau hoạt đông của Đức Giêsu, bởi vì Người chính là sự mạc khải
của Chúa Cha, là Lời của Thiên Chúa (1,1.14.18).
* Vai trò của Thần Khí (13-14)
Ở đây
chúng ta được giới thiệu Đấng Bảo Trợ như là vị hướng dẫn các môn đệ đến sự
thật toàn vẹn. Trong Cựu Ước, đã có
những ý tưởng như thế về Thần Khí (x. Tv
25,4-5 [sự thật]; 143,10 [thần khí]; Is
63,14). Đôi khi người ta nêu vấn nạn là: các bản văn Cựu Ước đó chỉ liên hệ đến việc hướng dẫn luân lý, chứ không liên
hệ đến việc hiểu biết mạc khải sâu xa hơn; và như thế dung mạo Đấng Bảo Trợ do Ga phác ra hoàn toàn khác: như vậy,
“thần khí”, “đường lối”, “chân lý” trong TM
Ga có ý nghĩa hoàn toàn khác. Thật ra đó là bối cảnh Cựu Ước và tác giả TM IV đã
đi từ bối cảnh đó để viết; nhưng chắc chắn Đấng Bảo Trợ hướng dẫn trên con
đường chân lý không chỉ có nghĩa là đưa đến một hiểu biết sâu sắc hơn
bằng lý trí những gì Đức Giêsu đã nói, nhưng còn hàm ý là đưa đến một cách
sống phù hợp với giáo huấn của Đức Giêsu. Và như vậy, tư tưởng Ga không xa tư tưởng Cựu Ước như ta tưởng. Ta cũng có thể nghĩ đến vai trò
hướng dẫn của Đức Khôn Ngoan (x. Kn
9,11; 10,10); cũng như gương mặt của Đức Giêsu theo Ga được phác ra phỏng theo Đức Khôn Ngoan thần linh được nhân cách
hóa, thì dung mạo của Đấng Bảo Trợ cũng được phác ra tương tự.
Đấng Bảo
Trợ sẽ hướng dẫn các môn đệ tới sự thật toàn vẹn. Ở Ga 8,31-32, Đức Giêsu đã hứa: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi,
thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật”. Điều này được nên
trọn trong và qua Đấng Bảo Trợ. Dẫn dắt tới sự thật toàn vẹn là dẫn đưa vào mầu
nhiệm của Đức Giêsu là Sự Thật (14,6). Chi tiết xác định “sự thật toàn vẹn”
(x. 14,26) và điểm nhấn rằng Đấng Bảo Trợ sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng
chỉ nói những gì Người nghe, dường như cũng xác nhận rằng không có mạc khải
mới. Đấng Bảo Trợ sẽ giúp cho mỗi thế hệ hiểu sâu sắc những gì Đức Giêsu muốn
cho chính thời đại họ.
Câu 14
càng củng cố ấn tượng là Đấng Bảo Trợ không mang đến một mạc khải mới,
bởi vì Người nhận từ Đức Giêsu những gì Người phải loan báo cho các môn đệ. Tuy
nhiên, “dẫn tới sự thật toàn vẹn” không phải là việc duy nhất trong công tác
“làm nhớ lại” (14,26). Bởi vì Thánh Thần cũng là “Đấng tạo hóa”, việc nhớ lại
Người làm ra cũng đi đôi vối việc loan báo “những điều sẽ xảy đến (erchomena)”: việc nhớ lại không làm cho
các môn đệ quay lưng lại với tương lai, nhưng giúp họ nắm lấy và giải thích
tương lai.
Như Đức Giêsu đã tôn vinh Chúa Cha (17,4) bằng cách mạc
khải Chúa Cha cho loài người, nay Đấng Bảo Trợ “tôn vinh” Đức Giêsu bằng cách
mạc khải Người cho loài người. Vinh quang hàm ý có sự tỏ hiện ra hữu hình: Đấng
Bảo Trợ sẽ làm chứng và biến người ta thành chứng nhân (15,26-27) cho Đức Giêsu
Phục Sinh; như thế Người sẽ giới thiệu công khai Đức Giêsu Phục Sinh đang chia
sẻ vinh quang của Chúa Cha (17,5). Và đây cũng là một yếu tố thuộc cánh
chung học đã thể hiện: Đối với các TMNL,
Con Người sẽ đến trong vinh quang vào Ngày Cuối Cùng (Mc 13,26), còn đối với TM IV,
đã có vinh quang rồi do Đức Giêsu hiện diện trong và qua Đấng Bảo Trợ.
* Tương quan giữa Thần Khí với Chúa Cha và với Đức Giêsu
(15)
Câu 15 gián tiếp nhắc đến tương quan của Đấng Bảo Trợ với Chúa Cha và với Chúa Con. Ở chương 16
này, ta thấy Đức Giêsu là Đấng sai phái Đấng Bảo Trợ (16,7); nhưng ở 14,16.26,
Chúa Cha lại là Đấng sai phái. Nhưng c. 15 cho thấy rằng khi viết ch. 16, tác
giả cũng biết rằng cuối cùng Đấng Bảo Trợ, cũng như Đức Giêsu, là sứ giả của
Chúa Cha. Khi loan báo hoặc giải thích những gì thuộc về Đức Giêsu, Đấng Bảo
Trợ thực sự giới thiệu Chúa Cha cho loài người; bởi vì Chúa Cha và Đức Giêsu có
mọi sự chung với nhau. Sau này các nhà thần học Đông phương và Tây phương sẽ
tranh cãi trong Thần học về Ba Ngôi xem Thánh Thần nhiệm xuất từ một mình
Chúa Cha hay là từ Chúa Cha và Chúa Con. Còn trong tư tưởng Ga, không thể hiểu được chuyện Đấng Bảo
Trợ có điều gì nhận lấy từ Đức Giêsu mà lại không nhận lấy từ Chúa Cha, nhưng
tất cả những gì Người có để cho loài người, đều nhận lấy từ Chúa Cha và từ Đức
Giêsu.
+ Kết
luận
Vai trò của Thánh Thần được khẳng định rõ ràng: Người đưa
các thế hệ môn đệ vào trong sự thật toàn vẹn, tức là hiểu biết sâu sắc mầu
nhiệm Đức Kitô, Con Thiên Chúa Nhập Thể. Như Đức Kitô luôn quy chiếu về Chúa
Cha, Đấng đã sai phái Người (x. 7,17-18; 12,49; 14,10), Thánh Thần cũng quy
chiếu về Chúa Con. Người sẽ là vị “gia sư” nhắc lại cho các môn đệ tất cả mạc
khải của Đức Giêsu và giúp đào sâu qua các thời đại.
5.- Gợi
ý suy niệm
1. Qua bản văn này, chúng ta thấy Đức Giêsu nói về Chúa Cha
và Thánh Thần như là những nhân vật riêng biệt, khác với chính bản thân Người.
Người giới thiệu Chúa Cha như là nguồn mạch thông ban mọi sự: Chúa Cha sai phái
Chúa Con và Thánh Thần; Chúa Con luôn quy chiếu về Chúa Cha để nhận Lời mà
truyền đạt cho các môn đệ, cũng như để lấy các quyết định. Chúa Con công chính
hóa loài người, ban cho họ sự bình an của Người và ký thác cho họ quyền lực
giao hòa. Người nói về Thánh Thần như là một nhân vật mà người ta đang chờ đợi,
sẽ đến để hoàn tất một sứ mạng riêng, đó là đưa các môn đệ đến chỗ hiểu
kỹ càng hơn trọn vẹn mạc khải Người đã ban. Đàng khác, Người cũng cho thấy là
Chúa Cha và Thánh Thần kết hợp mật thiết với Người, đến nỗi Đấng này không làm
gì mà không có Đấng kia. Sự tách biệt nói lên tính tự lập, sự kết hợp nói lên
sự hiệp thông trọn vẹn. Đây là mẫu mực cho đời sống của mọi tập thể trong Họi
Thánh.
2. Mặc dù Đức Giêsu đã truyền đạt cho các môn đệ tất cả
các bí mật của Người (Ga 15,15), các
ông vẫn chưa hiểu được. Các ông cần một phương pháp thích ứng mà Thánh
Thần, với khoa sư phạm riêng, sẽ cung cấp cho. Thánh Thần không phải là một vị
thầy giảng dạy, nhưng là một vị “gia sư” giải thích cặn kẽ giáo huấn của
vị thầy. Như vậy, Thánh Thần không có giáo thuyết riêng; Người chỉ nhắc lại mạc
khải về Chúa Cha nơi Chúa Con và giúp các môn đệ hiểu (14,26). Thánh Thần cũng
giúp các thế hệ môn đệ hiểu được mạc khải của Đức Kitô và chọn được các xử sự
tương ứng. Đưa lại một ý nghĩa Kitô giáo cho lịch sử, giúp người ta khám
phá ra trong mọi sự có dấu vết của chương trình Thiên Chúa, đó là sứ mạng của
Thánh Thần nơi các môn đệ, và đó cũng là sứ mạng chứng nhân của họ.
3. Từ ngữ “sự thật” trong truyền thống Kinh Thánh hàm ý “sự vững vàng”, “sự bền
bỉ”, “thực tại chắc chắn”. Sự thật của Thiên Chúa được tỏ bày nơi Đức Kitô (Ga 1,9). Vậy điểm tựa vững chắc của
người tín hữu là Đức Giêsu Kitô (Ga
1,12). Thánh Thần sẽ giúp các tín hữu xác tín về vai trò này của Đức Giêsu và
luôn liên kết với Người.
4. Ba Ngôi là “thẻ căn cước” của người Kitô hữu. Người
môn đệ của Đức Giêsu phải phản ánh dung mạo của Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh
Thần. Người ta thấy được dấu ấn Ba Ngôi nơi cộng đoàn khi mọi người được chấp
nhận và đón tiếp, khi niềm vui và nỗi buồn được chia sẻ, khi sự đa dạng không
xóa mất sự hợp nhất, nhưng làm cho mọi người nên phong phú. Chúng ta thấy được
dấu ấn của Ba Ngôi tại bất cứ nơi nào người ta tìm kiếm vinh quang chân thực:
không phải là thứ vinh quang do cạnh tranh và thống trị, nhưng do khiêm nhường
phục vụ những ai cần được yêu thương.
5. Hôm nay, chúng ta không cử hành một Tín điều của Giáo Hội, nhưng
cử hành một mầu nhiệm sâu thẳm là chính Thiên Chúa, Đấng đã chọn cắm lều giữa
chúng ta, “là người thật và cũng là Thiên Chúa thật”, đã không để chúng ta mồ
côi, nhưng cho chúng ta được chia sẻ sự sống của Thiên Chúa nhờ ân sủng của
Thánh Thần. Chính Thánh Thần không ngừng nối kết ta với Thiên Chúa và với tha
nhân trong tình yêu. Chính niềm tin về mối tương quan này
sẽ mở mắt và giúp ta ý thức về sự hiện diện của Thiên
Chúa, như một nhà thần bí nói rằng: “Gần kề với chúng ta hơn cả chính chúng
ta”. Giáo lý về Chúa Ba Ngôi nói đến chính tình yêu Thiên Chúa không ngừng đổ
tràn trên thế giới này. Đây không phải là ngày để các vị giảng thuyết tìm kiếm
những “giải thích hay ví dụ” về Ba Ngôi. Hôm nay không phải để nói về từ ngữ
hay cấu trúc, nhưng là cử hành sự hiện diện sống động của Thiên Chúa, Đấng đang
cư ngụ giữa chúng ta. Hôm nay, chúng ta ca tụng. Nếu muốn biết thêm về những
mâu thuẫn liên quan đến Ba Ngôi vào thời đầu của Giáo Hội và giáo lý này tiến
triển ra sao, thì ngày mai chúng ta có thể tìm trong sách vở (Siciliano).
Lm FX Vũ Phan Long, ofm